TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DIỄN CHÂU, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 03/2020/HSST NGÀY 18/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Hôm nay ngày 18 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 07/2020/HSST ngày 07 tháng 10 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2020/QĐXXST- HS ngày 06 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Thái Bá L (tên gọi khác: Không); sinh ngày 15 tháng 3 năm 1981 tại huyện D C, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: Xóm Trung Hồng, xã D N, huyện D C, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Thái Bá L, sinh năm 1959 và con bà: Nguyễn Thị X, sinh năm 1959; vợ: Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1980; con: 01 con (đã chết); Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Tại bản án số 44/2013/HSST ngày 30/5/2013 của Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận xử phạt Thái Bá L 03 (Ba) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ngày 24/4/2015, chấp hành xong bản án. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/7/2020 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1, Anh Trần Văn D, sinh năm 1992.
Trú tại: Xóm Tây Lộc, xã D N, huyện D C, tỉnh Nghệ An (vắng mặt).
2, Bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1959 Trú tại: Xóm Trung Hồng, xã D N, huyện D C, tỉnh Nghệ An (có mặt).
* Người làm chứng: Anh Phan Văn H, sinh năm 1961.
Trú tại: Xóm 6, xã D T, huyện D C, tỉnh Nghệ An (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
- Về hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng 12 giờ ngày 11/7/2020, Thái Bá L đang ở nhà tại xóm Trung Hồng, xã D N, huyện D C, tỉnh Nghệ An thì có bạn tên M, trú tại huyện Y T, tỉnh Nghệ An (L không rõ tên, tuổi địa chỉ đầy đủ) đến và rủ L mua ma túy về để sử dụng thì L đồng ý.
Sau đó, M đưa cho L số tiền 700.000 đồng (Bảy trăm nghìn đồng); L cầm tiền và gọi điện cho Q, trú tại xã D H, huyện D C, tỉnh Nghệ An hỏi “Em có ma túy hồng phiến không, bán cho anh bảy trăm nghìn đồng”; Q trả lời “Có” rồi L nói Q đưa ma túy đến nhà L, Q đồng ý.
Khoảng 20 phút sau, Q đến nhà gặp và đưa cho L 01 (Một) gói nilon màu đen bên trong có chứa 12 (Mười hai) viên ma túy hồng phiến rồi lấy số tiền 700.000 đồng. Sau đó, L cầm gói ma túy vào nhà đưa cho M. M lấy 08 (Tám) viên ma túy hồng phiến ra cùng L sử dụng. 04 (Bốn) viên ma túy còn lại M gói vào mảnh giấy bạc, đưa cho L và nhờ L đưa lên nhà M. Khoảng 13 giờ 20 phút cùng ngày, L cầm gói ma túy đó rồi điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 37N1- 1414 đi lên huyện Yên Thành; khi Lam đi đến Km 07, đường Quốc lộ 7B thuộc xã Diễn Thái, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An thì bị Tổ công tác Phòng Quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an tỉnh Nghệ An phát hiện, kiểm tra. Quá trình kiểm tra, L đã vứt số ma túy xuống mặt đường ngay tại vị trí chân trái của mình. Tổ công tác đã thu giữ 01 (Một) gói giấy bạc màu trắng, bên trong chứa 04 (Bốn) viên nén màu hồng rồi dẫn giải Thái Bá L về trụ sở để tiếp tục điều tra, làm rõ.
Ngày 11/7/2020, Phòng Quản lý hành chính về trật tự xã hội công an tỉnh Nghệ An chuyển hồ sơ vụ, việc cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Diễn Châu để tiếp tục điều tra theo thẩm quyền.
Kết luận giám định số 1033/KL-PC09(Đ2- MT) ngày 15/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu viên nén màu hồng thu giữ của Thái Bá Lam gửi giám định là ma túy (Methamphetamine). Số viên nén màu hồng 04 (Bốn viên) thu giữ của Thái Bá L có tổng khối lượng 0,4 gam (Không phẩy bốn gam).
Bản cáo trạng số 164/CT-VKSDC ngày 06/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu truy tố bị cáo: Thái Bá L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 18 (mười tám) đến 21 (hai mươi mốt) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.
Vật chứng: Căn cứ khoản 1 điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy một phong bì thư bên trong có chứa ma túy còn lại sau khi gửi giám định; 01 giấy bạc, 01 phong bì niêm phong ban đầu.
Tịch thu sung quỹ nhà nước: Một chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia, màu đen, đã qua sử dụng.
Trả lại cho bà Nguyễn Thị X (là mẹ đẻ của Thái Bá L) 01 (Một) chiếc xe mô tô màu đỏ đen, hiệu Arigato, biển kiểm soát 37N1-1414, số khung ND51F- 00869, số máy AR-00000869, đã qua sử dụng, thu giữ của Thái Bá L được chuyển cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Diễn Châu để bảo quản.
Tại phiên tòa bị cáo nhất trí với bản luận tội của Kiểm sát viên, không tranh luận gì thêm, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Diễn Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp. [2] Tại phiên tòa, Thái Bá L khai nhận: Vào khoảng 13 giờ 20 phút ngày 11/7/2020, tại Km 07, đường Quốc lộ 7B thuộc địa phận xã Diễn Thái, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An; Tổ công tác Phòng quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an tỉnh Nghệ An phát hiện, bắt quả tang Thái Bá L có hành vi tàng trữ trái phép 0,4 gam ma túy (Methamphetamine). Kết luận giám định số 1033/KL- PC09(Đ2- MT) ngày 15/7/2020 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An, kết luận: Mẫu viên nén màu hồng thu giữ của Thái Bá L gửi giám định là ma túy (Methamphetamine) có tổng khối lượng 0,4 gam (Không phẩy bốn gam).
Bị cáo thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp, động cơ, mục đích phạm tội tàng trữ ma túy để sử dụng. Bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự.
Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp các chứng cứ, tài liệu thu thập có tại hồ sơ vụ án, vật chứng thu giữ được là ma túy (Methamphetamin) có khối lượng là 0,4 gam. Như vậy đã có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Thái Bá L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 249 của Bộ luật hình sự.
[3] Xét tính chất vụ án: Tính chất vụ án nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, xâm phạm sức khỏe và sự phát triển giống nòi của dân tộc, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Do đó cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.
[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Bị cáo có nhân thân xấu, đã bị Tòa án huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục phạm tội. Nhưng tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi quyết định hình phạt.
Về hình phạt bổ sung: theo quy định tại khoản 5 điều 249 BLHS quy định: “Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 500 triệu đồng”, do dó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo có thu nhập thấp, điều kiện kinh tế khó khăn, không có tài sản riêng. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.
Trong vụ án này, Đối với người đàn ông tên M, là người đã đưa tiền cho L để mua ma túy và người đàn ông tên Q, là người đã bán ma túy cho L (theo lời khai của L); do không xác định được tên, tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không đủ căn cứ để điều tra xử lý. Kiến nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Diễn Châu sẽ tiếp tục điều tra xác minh, nếu có căn cứ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.
[5] Vật chứng: Căn cứ khoản 1 điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trong quá trình điều tra Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo vật chứng gồm:
01 phong bì thư niêm phong gián kín bên trong chứa ma túy là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy. Một chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia, màu đen, đã qua sử dụng là phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước.
01 (Một) chiếc xe mô tô màu đỏ đen, hiệu Arigato, biển kiểm soát 37N1-1414, số khung ND51F-00869, số máy AR-00000869, đã qua sử dụng, thu giữ của Thái Bá L là của gia đình bị cáo mua lại nên cần trả lại cho bà Nguyễn Thị X (mẹ đẻ của Thái Bá Lam) là đúng quy định pháp luật.
[6] Về án phí hình sự: Căn cứ vào điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14. Buộc bị cáo Thái Bá L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm .
[7] Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật .
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Thái Bá L 18 (mười tám) tháng tù. Về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 11/7/2020.
Vật chứng: Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong theo đúng quy định bên trong chứa ma túy là vật chứng thu giữ của Thái Bá L sau khi lấy mẫu giám định. Tịch thu sung quỹ nhà nước một chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia, màu đen, đã qua sử dụng. Trả lại cho bà Nguyễn Thị X (là mẹ đẻ của Thái Bá L) một chiếc xe mô tô màu đỏ đen, hiệu Arigato, biển kiểm soát 37N1-1414, số khung ND51F-00869, số máy AR-00000869, đã qua sử dụng. Toàn bộ vật chứng hiện đang bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Diễn Châu theo phiếu nhập kho số NK0004 ngày 07 tháng 10 năm 2020.
Án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14.
Buộc bị cáo Thái Bá L phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Quyền kháng cáo: Bị cáo, Ngưởi có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (bà X) có mặt có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án 03/2020/HSST ngày 18/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 03/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Diễn Châu - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/11/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về