Bản án 03/2020/HSST ngày 14/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DI LINH, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 03/2020/HSST NGÀY 14/02/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 02 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 05/2020/TLST- HS ngày 20 tháng 01 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2019/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: K’ N; sinh ngày 06 tháng 12 năm 2002 tại Lâm Đồng ( Đến ngày thực hiện hành vi phạm tội bị cáo 16 tuổi 04 tháng 10 ngày); nơi cư trú: thôn Đ, xã N, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kơ ho; giới tính: Nam; tôn giáo: Tin lành; quốc tịch: Việt Nam; con ông K’ Long Ha Khim M và bà Ka H; tiền sự, tiền án: Không; Bị tạm giữ từ ngày 19/11/2019, chuyển tạm giam từ ngày 22/11/2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo:

Ông K’ Long Ha Khim M, sinh năm 1976 và bà Ka H, sinh năm 1981; nơi cư trú: thôn Đ, xã N, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng; Là bố mẹ của bị cáo. Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Phạm Công V, Trợ giúp viên - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

 Bị hại: Bà Lăng Thị L; sinh năm: 1978; nơi cư trú: Thôn 4, xã Tam Bố, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng; Có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Anh K’ B; sinh ngày 12 tháng 3 năm 2004; nơi cư trú: Thôn 4, xã T, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông K’ B; sinh năm 1975 và bà Ka T, sinh 1978; nơi cư trú: Thôn 4, xã T, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng; là bố mẹ của K’ B. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 23 giờ 00 ngày 16/4/2019, sau khi nhậu cùng nhau, thì K’ B rủ K’N đi trộm cắp tài sản tại nhà bà Lăng Thị L, tại thôn 4, xã Tam Bố, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng, K’ N đồng ý. Cả hai đi bộ đến nhà bà L rồi đi vòng ra bên hông nhà, do cửa không khóa nên K’ B dùng tay mở cửa hông rồi cả hai đi vào trong nhà rồi đi vào phòng ngủ bà L đang nằm ngủ, K’ N trộm cắp được 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 Pro màu đồng, 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đen, 01 điện thoại di động hiệu Nokia N216 màu trắng và số tiền 640.000 đồng. Sau đó, cả hai tiếp tục đi qua phòng ngủ ông Dưỡng (chồng bà L) đang nằm ngủ, K’ N trộm được 01 điện thoại di động hiệu LV Mobile LV 18 màu đen. Sau khi đi ra khỏi phòng ngủ này thì K’ N đưa cho K’ B 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đen và đưa tiền cho K’ B đếm để chia, K’ B đếm được 640.000 đồng và chia lại cho K’ N 300.000 đồng, K’ B giữ 340.000 đồng. Chia xong tiền thì cả hai tiếp tục ra quầy bán hàng tạp hóa phía trước của nhà bà L để tiếp tục trộm cắp tài sản.

Tại quầy bán hàng tạp hóa của nhà bà L, K’ N đã trộm được 01 rổ trứng gà công nghiệp (không xác định số lượng), 01 lốc gồm 10 lon cá hộp hiệu KIFOCAN, 06 gói cà phê nhãn hiệu Nescafe và 03 hộp sữa nhãn hiệu SuSu dung tích mỗi hộp 80ml; K’ B trộm được 4,2 lít xăng loại A92 đựng trong 03 can nhựa loại mỗi can 1,5 lít, 01 cây thuốc lá nhãn hiệu War Horse (gồm 10 gói), 05 gói thuốc lá nhãn hiệu Seven và tiền mặt 25.000 đồng. Sau đó K’ N chia cho K’ B 01 hộp sữa SuSu, K’ N giữ 02 hộp sữa SuSu rồi cả hai uống hết tại chỗ.

Sau khi trộm xong, cả hai mang hết những đồ vừa trộm cắp được ra bằng cửa trước do cửa không khóa. Do sợ mang nhiều đồ bị phát hiện nên cả hai đi đến bụi cỏ cách nhà bà L khoảng 30m để giấu bớt đồ. Tại đây cả hai đã giấu 01 rổ trứng gà, 01 lốc gồm 10 lon cá hộp hiệu KIFOCAN, 4,2 lít xăng loại A92 đựng trong 03 can nhựa loại mỗi can 1,5 lít, 01 điện thoại di động hiệu LV Mobile LV 18 màu đen, 01 điện thoại di động hiệu Nokia N216 màu trắng. Sau đó, K’ N chia cho K’ B 02 gói cà phê nhãn hiệu Nescafe, còn K’ B chia cho K’ N 08 gói thuốc lá nhãn hiệu War Horse và 02 gói thuốc lá Seven, rồi cả hai đi về nhà.

-Tại kết luận định giá tài sản số 97/KL-HĐĐG ngày 24/4/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Di Linh kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 Pro màu đồng (đã cũ) trị giá 5.000.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu LV Mobile LV 18 màu đen (đã cũ) trị giá 650.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đen (đã cũ) trị giá 200.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu Nokia N216 màu trắng (đã cũ) trị giá 300.000 đồng; 01 lốc gồm 10 lon cá hộp hiệu KIFOCAN trị giá 230.000 đồng.

Tại kết luận định giá tài sản số 409/KL-HĐĐG ngày 31/12/2019 và Công văn số 10/HĐĐG ngày 09/01/2020 về việc điều chỉnh Kết luận số 409/KL-HĐĐG ngày 31/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Di Linh kết luận: 4,2 lít xăng loại A92 trị giá 84.462 đồng, 03 can nhựa loại 1,5 lít trị giá 18.000 đồng, 01 cây thuốc lá nhãn hiệu War Horse (gồm 10 gói) trị giá 220.000 đồng, 05 gói thuốc lá nhãn hiệu Seven trị giá 60.000 đồng, 03 hộp sữa nhãn hiệu SuSu trị giá 12.000 đồng, 06 gói cà phê nhãn hiệu Nescafe trị giá 15.000 đồng. Cộng: 409.462 đồng. Giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 6.789.462 đồng và 665.000 đồng tiền mặt, tổng cộng 7.454.462 đồng.

-Bà Lăng Thị L khai báo số tiền mặt bị mất trộm là 1.800.000 đồng và bị mất 02 cây thuốc lá nhãn hiệu War Horse, tuy nhiên quá trình điều tra chỉ chứng minh được hai đối tượng đã lấy trộm số tiền 665.000 đồng và 01 cây thuốc lá nhãn hiệu War Horse. Đối với rổ trứng gà công nghiệp không xác định được số lượng, trọng lượng. Do đó không có cơ sở để giải quyết.

Đối với K’ B (sinh ngày: 12/3/2004) khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản cùng K’ N vào ngày 16/4/2019 thì K’ B chưa đủ 16 tuổi, do vậy K’ B chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm ít nghiêm trọng. Ngày 10/01/2020 Công an huyện Di Linh đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với K’ B bằng hình thức “Cảnh cáo”.

Tại bản Cáo trạng số 07/CT-VKS ngày 17 tháng 01 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng đã truy tố bị cáo K’ N về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, không thắc mắc hay khiếu nại gì về nội dung bản cáo trạng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1,2 Điều 51; Điều 91; khoản 1 Điều 101; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo K’ N từ 06 tháng đến 09 tháng tù:

-Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là bà Lăng Thị L đã nhận lại một phần tài sản bị trộm cắp và không có yêu cầu bồi thường gì thêm, nên không xem xét.

 Người bào chữa, đại diện hợp pháp cho bị cáo nhất trí với nội dung bản luận tội của Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Lời nói sau cùng: Bị cáo K’ N xin lỗi bị hại và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Di Linh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Di Linh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Bị cáo K’ N là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Vào khoảng 23 giờ 00 ngày 16/4/2019 tại thôn 4, xã Tam Bố, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng, K’ N và K’ B đã có hành vi lén lút chiếm đoạt số tiền 665.000 đồng cùng 04 điện thoại di động và các hàng tạp hóa trị giá 6.789.462 đồng. Tổng cộng giá trị tài sản bị cáo K’ N chiếm đoạt của bà Lăng Thị L là 7.454.462 đồng.

Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo, lời khai của bị hại và lời khai của những người tham gia tố tụng khác, phù hợp với các chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ, đủ căn cứ xét xử bị cáo K’ N về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017, đúng như tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Di Linh đã truy tố.

[3]Xét hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo biết rõ, việc lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác một cách bất hợp pháp là vi phạm pháp luật và sẽ bị nghiêm trị, nhưng vì muốn có tiền tiêu xài bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của bị hại, mà còn gây mất trật tự trị an ở địa phương làm cho nhân dân hoang mang không yên tâm lao động sản xuất và bất bình lên án. Trong tình hình tội phạm xảy ra ở địa phương có chiều hướng phức tạp, đặc biệt là tội phạm trộm cắp tài sản, do vậy việc xét xử đối với bị cáo phải nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo và răn đe, giáo dục phòng ngừa chung.

Xét vai trò của bị cáo trong vụ án thì thấy: Trong vụ án này, K’B là người đề xuất khởi xướng, quá trình thực hiện tội phạm lại tích cực, tuy nhiên khi thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản, K’B mới đủ 15 tuổi 01 tháng 06 ngày, chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, đối với tội phạm ít nghiêm trọng, cho nên ngày 10/01/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Di Linh đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo đối với K’ B là đúng với quy định của pháp luật. Đối với bị cáo K’ N tuy là người bị rủ rê, quá trình thực hiện tội phạm lại tích cực. Mặc dù tính chất mức độ phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội được gia đình bảo lãnh và được điều tra tại ngoại, nhưng khi Cơ quan pháp luật triệu tập bị cáo đến để làm việc thì bị cáo không chấp hành, đã bỏ trốn khỏi địa phương gây trở ngại cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến Cơ quan cảnh sát điều tra phải ra quyết định truy nã mới bắt được bị cáo để xử lý, sự việc này đã thể hiện thái độ coi thường kỷ cương pháp luật của bị cáo. Do đó cần phải xét xử nghiêm, cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt có xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo khi lượng hình, tại thời điểm phạm tội bị cáo K’ N mới đủ 16 tuổi 04 tháng 10 ngày là người chưa thành niên, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, trong quá trình điều tra thật thà khai báo, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, do đó cần áp dụng điểm i điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 91, của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[4] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Quá trình điều tra cơ quan cảnh sát điều tra đã thu hồi và trả lại cho bị hại là bà Lăng Thị L các tài sản bà bị mất trộm gồm; 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 Pro màu vàng đồng, 01 điện thoại di động hiệu LV Mobile LV 18 màu đen, 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đen, 01 điện thoại di động hiệu Nokia N216 màu trắng, 01 lốc gồm 10 lon cá hộp hiệu KIFOCAN, 4,2 lít xăng loại A92 đựng trong 03 can nhựa, và 340.000 đồng.

Ngoài ra theo bà L số tiền mặt của bà bị mất trộm là 1.800.000 đồng và 02 cây thuốc lá; 03 kg trứng gà. Quá trình điều tra xác định, bị cáo chỉ chiếm đoạt số tiền 665.000.000 đồng và đã trả lại 340.000 đồng và 01 cây thuốc lá 10 gói, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bà không có căn cứ chứng minh, nên bà không yêu cầu gì thêm. Đối với các thiệt hại còn lại, xét thấy hoàn cảnh kinh tế của gia đình bị cáo và người liên quan có khó khăn, nên bà không yêu cầu bồi thường. Hội đồng xét xử xét thấy việc bà L không yêu cầu bị cáo bồi thường phần còn lại là tự nguyện, do đó phần quyết định của bản án không đề cập.

[5] Về án phí: Bị cáo K’ N phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1,2 Điều 51; Điều 91; khoản 1 Điều 101; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017

1.Tuyên bố bị cáo K’ N phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.

 Xử phạt K’ N, 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19/11/2019.

2. Về án phí: Buộc bị cáo K’ N phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo, yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 03/2020/HSST ngày 14/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:03/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Di Linh - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;