Bản án 03/2020/HS-ST ngày 09/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 03/2020/HS-ST NGÀY 09/01/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 01 năm 2020, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Thái Nguyên mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 174/2019/TLST-HS, ngày 12 tháng 12 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 191/2019/HSST-QĐ ngày 27 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên Dương Đình Q, sinh năm: 1982.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Xóm H, xã X, huyện P, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Dương Đình T, sinh năm 1956 và bà: Dương Thị S, sinh năm 1955; Vợ: chưa có; Gia đình có 05 anh em bị cáo là con thứ 03.

Tiền án: Tại bản án số 160/2016/HS-PT, ngày 12/12/2016, bị Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên. Xử phạt 18 (Mười tám) tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/9/2019 cho đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện P, tỉnh Thái Nguyên. (Có mặt)

- Người chứng kiến: Anh Dương Minh T, sinh năm 1986

Nơi cư trú: Xóm T, xã Đ, huyện P, tỉnh Thái Nguyên. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 45 phút ngày 12/9/2019, Tổ công tác Công an huyện P phối hợp với Công an xã Đ, huyện P, tỉnh Thái Nguyên đang làm nhiệm vụ tại khu vực xóm T, xã Đ, thì phát hiện có một nam thanh niên có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác đã yêu cầu cho kiểm tra, nam thanh niên này tự khai nhận tên là: Dương Đình Q, sinh năm 1982, trú tại xóm H, xã X, huyện P, tỉnh Thái Nguyên. Đồng thời, Q tự giác lấy từ trong túi quần bên trái đang mặc ra giao nộp cho Tổ công tác 01 gói nilon màu trắng, bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng, Q khai là ma túy (Heroine) của Q. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng theo quy định, đưa Q về trụ sở Công an để điều tra làm rõ.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P tiến hành khám xét khẩn cấp về đồ vật, khu vực nhà ở của Dương Đình Q, nhưng không phát hiện thu giữ được gì liên quan đến vụ án.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P, tỉnh Thái Nguyên phối hợp với Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên tiến hành cân xác định khối lượng 01 gói nilon màu trắng, bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng, niêm phong ký hiệu A thu giữ của Q có khối lượng 0,236 gam. Lấy toàn bộ 0,236 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu A1.

Tại bản kết luận giám định số: 1285/KL-PC09 ngày 20/9/2019 của phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thái Nguyên. Kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng trong mẫu A1 thu giữ của Dương Đình Q gửi đến giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,236 gam.

Cơ quan CSĐT Công an huyện P tiến hành khám xét khẩn cấp về đồ vật, khu vực nhà ở của Dương Đình Q nhưng không phát hiện thu giữ được gì liên quan đến vụ án.

Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện P, Dương Đình Q khai nhận toàn bộ về hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Cáo trạng số 01/CT-VKSPB ngày 11 tháng 12 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện P, tỉnh Thái Nguyên truy tố Dương Đình Q về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Dương Đình Q thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau: Do bản thân là người mắc nghiện ma túy đã lâu, nên Q thường xuyên phải đi mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Vào khoảng 10 giờ ngày 12/9/2019 Q một mình đi từ nhà sang khu Công Nghiệp, thuộc xã Đ, huyện P, tỉnh Thái Nguyên tìm mua ma túy về sử dụng cho bản thân, đến nơi Q gặp một người đàn ông không rõ tên, tuổi, lai lịch địa chỉ. Tại đây, Q hỏi và mua được của người đàn ông này 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng. Sau khi giao tiền và nhận ma túy Q đang trên đường đi về đến khu vực xóm T, xã Đ, huyện P, thì bị Công an phát hiện bắt quả tang thu giữ cùng vật chứng như đã nêu trên.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P sau khi phân tích, đánh giá chứng cứ, nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo đã kết luận: giữ nguyên cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị với Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Dương Đình Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt Dương Đình Q từ 03 đến 04 năm tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong (ký hiện A1) bên trong có chứa 0,208gam ma túy Heroine được hoàn lại sau giám định và vỏ bao gói A1; Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước theo quy định của pháp luật.

Kết thúc phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Cơ quan điều tra Công an huyện P, tỉnh Thái Nguyên; Kiểm sát viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện P, tỉnh Thái Nguyên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai đó là có căn cứ chấp nhận, vì đúng như cáo trạng truy tố, phù hợp với chính lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, sơ đồ hiện trường, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, lời khai của người tham gia tố tụng khác cùng các tài liệu chứng cứ khác. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định:

Hồi 10 giờ 45 phút ngày 12/9/2019, tại khu vực xóm T, xã Đ, huyện P, tỉnh Thái Nguyên, bị cáo Dương Đình Q có hành vi cất giữ trên người 01 gói Heroine có tổng trọng lượng (khối lượng) là 0,236gam với mục đích đi mua về để sử dụng cho bản thân, nhưng chưa kịp sử dụng thì Công an huyện P, tỉnh Thái Nguyên phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.

Hành vi của bị cáo Dương Đình Qcó đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Nội dung Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine......có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

[3] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự xã hội ở địa phương là nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm hình sự khác. Cần phải xử lý nghiêm minh bằng pháp luật hình sự và cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân tốt.

Xét về nhân thân: Ngày 12/12/2016, bị Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên. Xử phạt 18 (Mười tám) tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện trở thành công dân có ích cho xã hội mà lại tiếp tục phạm tội tỏ ra coi thường pháp luật. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm minh để răn đe phòng ngừa chung cho xã hội.

Xét tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội thành khẩn khai báo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xét tình tiết tăng nặng: Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xét nhân thân, tính chất mức độ tội phạm và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc một mức án tương ứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.

[4] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử thấy, bị cáo là người nghiện ma túy không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo

[5] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Đối với 01 bì niêm phong (ký hiện A1) bên trong có chứa 0,208gam ma túy Heroine được hoàn lại sau giám định không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy;

[6] Xét đề nghị của Đại diện viện kiểm sát trong lời luận tội về tội danh, mức hình phạt chính, phạt bổ sung, xử lý vật chứng vụ án là phù hợp với quy định của pháp luật cần chấp nhận.

[7] Về tạm giam bị cáo sau khi tuyên án: Căn cứ vào Điều 329 của Bộ luật tố tụng hình sự, ra quyết định tạm giam bị cáo Dương Đình Q với thời hạn 45 (Bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu một khoản án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ, áp dụng pháp luật:

- Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52;Điều 38 và Điều 47 của Bộ luật hình sự;

- Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 326; Điều 329 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Dương Đình Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt chính: Xử phạt Dương Đình Q 03 (Ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12 tháng 9 năm 2019.

3. Về tạm giam bị cáo sau khi tuyên án: Ra quyết định tạm giam bị cáo Dương Đình Q với thời hạn 45 (Bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

4. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiện A1 bên trong có chứa 0,208 gam Heroine được hoàn lại sau giám định mẫu A1 và vỏ bao gói A1;

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/12/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra của Công an huyện P và Chi cục Thi hành án dân sự huyện P).

5. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Dương Đình Q phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm nộp vào ngân sách Nhà nước.

6. Thông báo về quyền kháng cáo: Có mặt bị cáo Dương Đình Q có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 03/2020/HS-ST ngày 09/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:03/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phổ Yên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;