Bản án 03/2020/HS-PT ngày 26/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và vận chuyển trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 03/2020/HS-PT NGÀY 26/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Vào ngày 26 tháng 10 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 25/2020/TLPT-HS ngày 09 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo Lê Cảnh Hoài A và bị cáo Trương Đức A. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2020/HS-ST ngày 04/09/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng. Theo Quyết định đua vụ án ra xét xử số 21/2020/QĐXXPT-HS ngày 12 tháng 10 năm 2020.

- Bị cáo kháng cáo:

1. Lê Cảnh Hoài N, sinh ngày 07/9/1993 tại Quảng Trị; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; Con ông Lê Cảnh T (s) và bà Võ Thị Kim H (s); gia đình có 03 người con, bị cáo là con thứ 3.

Tiền sự: Ngày 15/10/2018 bị Công an tỉnh Quảng Trị xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 2.500.000đ về hành vi “Xâm phạm sức khỏe người khác” Tiền án:

- Ngày 30/5/2013, bị Toà án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị xử phạt 04 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

- Ngày 31/5/2018, bị Toà án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo chấp hành xong, ra trại ngày 16/01/2019.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 19/02/2020, tạm giam ngày 28/02/2020, có mặt.

2. Trương Đức A, sinh ngày 26/2/1999 tại Quảng Trị; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: lao động phổ thông; Trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; Con ông Trương Đức C (s) và bà Nguyễn Thị Hải H (s); Gia đình có 03 người con, bị cáo là con thứ nhất.

Nhân thân:

- Ngày 19/7/2016 bị Công an tỉnh Quảng Trị xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 750.000đ về hành vi “Trộm cắp tài sản”

- Ngày 27/9/2016, bị Toà án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cố ý gây thương tích”.

- Ngày 30/6/2017, bị Toà án nhân dân tỉnh Quảng Trị xử phạt 18 tháng tù về tội “Sử dụng mạng Internet thực hiện hành vi chiếm đoạt”; Tổng hợp hình phạt 30 tháng tù. Bị cáo chấp hành xong, ra tù ngày 07/8/2019.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 19/02/2020, tạm giam ngày 28/02/2020 có mặt

- Người bào chữa cho bị cáo Lê Cảnh Hoài N: Ông Bùi Xuân N - Luật sư Công ty Luật TNHH MTV A, thuộc Đoàn Luật sư thành phố Đà Nẵng bào chữa theo chỉ định của Tòa án; vắng mặt, bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

[1] Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 15 giờ 45 phút ngày 19/2/2020, nhận được tin báo của quần chúng nhân dân tại khu vực trước tiền sảnh Siêu thị B, thuộc phường V, quận T, thành phố Đà Nẵng, Phòng CSĐTTP về ma túy Công an thành phố Đà Nẵng, tiến hành kiểm tra phát hiện trong túi quần bên phải của Trương Đức A đang mặc có 01 viên nén hình lục giác màu tím và 02 ống nhựa màu trắng kích thước (1 x 4)cm bên trong chứa các viên nén màu đỏ. Đức A khai đây là ma túy loại hồng phiến và thuốc lắc. Mục đích cất giấu để sử dụng. Tang vật được thu giữ niêm phong theo quy định pháp luật ký hiệu C.

Kết luận giám định số 55/GĐ-MT ngày 27/2/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: Mẫu viên nén màu đỏ trong gói niêm phong ký hiệu C gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine khối lượng mẫu Ca: 0,685 gam và mẫu Cb là ma túy loại loại Methamphetamine và MDMA khối lượng mẫu Cb: 0,381 gam. (BL: 20) Lúc 19 giờ 30 phút cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Nẵng, thực hiện lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Lê Cảnh Hoài N.Tạm giữ của Nam các đồ vật sau:

- 01 (một) gói ni long màu trắng trong kích thước khoảng (6x9) cm bên trong có chứa 95 (chín mươi lăm) viên nén có logo “qp”. Niêm phong theo quy định pháp luật, ký hiệu C1.

- 01 (một) gói ni long màu trắng trong kích thước khoảng (6x9) cm bên trong có chứa 05 (năm) viên nén màu hồng, 14 (mười bốn) viên nén màu xám đen và 02 (hai) mảnh vỡ từ viên nén màu xám đen. Niêm phong theo quy định pháp luật, ký hiệu C2.

- 02 (hai) gói ni long có màu trắng trong, một gói có kích thước khoảng (8x13) cm, một gói có kích thước khoảng (10x17) cm bên trong mỗi gói có chứa tinh thể rắn màu trắng. Niêm phong theo quy định pháp luật, ký hiệu C3.

Kết luận giám định số 55/GĐ-MT ngày 27/2/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: Các viên nén trong mẫu ký hiệu C1 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine và MDMA khối lượng mẫu C1: 36,260 gam và các viên nén trong mẫu ký hiệu C2a, C2b gửi giám định là ma túy, loại MDMA khối lượng mẫu C2a: 2,396 gam; mẫu C2b: 6,923 gam; các tinh thể rắn màu trắng ký hiệu C3 là ma túy, loại Ketamine, khối lượng mẫu C3: 142,53 gam.

Quá trình điều tra xác định được như sau:

Thông qua mối quan hệ xã hội, Lê Cảnh Hoài N quen biết với nam thanh niên tên “NH” (không rõ nhân thân, lai lịch). Lúc 20 giờ 00 ngày 18/02/2020, tại quán bar N, TP Đ, tỉnh Quảng Trị, “NH” nhờ Nam vận chuyển ma túy từ thành phố Đ, Quảng Trị vào thành phố Đà Nẵng để giao cho nam thanh niên tên V (không rõ nhân thân, lai lịch). Khi vận chuyển ma túy xong “NH” trả tiền công 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng), Nam đồng ý. Khoảng 01 giờ 00 ngày 19/02/2020, “NH” điện thoại cho Nam hẹn đến khu vực đường Đặng Dung, Đ, Quảng Trị để đưa ma túy. Khi đến địa điểm trên, “NH” không trực tiếp đến mà đưa cho nam thanh niên bịt khẩu trang (không rõ nhân thân, lai lịch) giao cho NH túi nilong bên trong có hộp giấy màu xanh chứa nhiều viên nén và chất tinh thể rắn màu trắng, NH biết là ma túy loại thuốc lắc và Ketamine. Khi nhận được ma túy NH đem cất giấu ở ngoài đường gần nhà NH. Đến 7 giờ 00 cùng ngày, Trương Đức A đến nhà NH chơi. Tại đây, NH điện thoại bạn quen biết ngoài xã hội mua 10 (mười) viên ma túy loại hồng phiến với số tiền 500.000đ (Năm trăm ngàn đồng). NH đưa tiền cho Đức A xuống lấy ma túy. Khi giao dịch ma túy xong, NH và A sử dụng 03 (ba) viên ma túy loại hồng phiến, còn 7 (bảy) viên, NH đưa A cất giữ để vào Đà Nẵng sử dụng, A đồng ý cất vào túi quần. Sau đó, NH nhờ cha mình là ông Lê Cảnh T thuê xe ô tô BKS 74A - 04.178 của bà Trần Thị Hà L để cho NH đi vào Đà Nẵng tham quan khu du lịch Bà Nà.

Khoảng 9 giờ 00 cùng ngày, NH đến nơi cất giấu ma túy lấy đem lên để ở vị trí ghế phụ nơi NH ngồi. NH rủ A, Đinh Thị Thùy T, Trần Thị Tuyết N, Nguyễn Trung H vào Đà Nẵng tham quan khu du lịch Bà Nà. NH nhờ H lái xe, khi đến Đà Nẵng cả nhóm ăn trưa tại đường P, Đà Nẵng. Trong lúc ăn, “NH” điện thoại cho NH bảo lấy trước 01 (một) viên ma túy thuốc lắc giao cho V để dùng thử. NH ra xe lấy một viên ma túy thuốc lắc và gọi A vào xe ô tô rồi đưa cho A cất giữ (NH không nói mục đích và A cầm ma túy cũng không hỏi mục đích để làm gì). A cầm viên ma túy và cất vào túi nilong cùng với số ma túy hồng phiến trước đó. Sau khi ăn trưa xong, NH cùng những người bạn đến Siêu thị B Đà Nẵng để mua sắm đồng thời NH chờ điện thoại của “NH” giao ma túy cho V.

Cả nhóm đang đứng trước tiền sảnh siêu thị B thì lực lượng Công an kiểm tra phát hiện tại túi quần Jean bên phải của Trương Đức A có 02 (hai) ống nhựa màu trắng bên trong có chứa 7 (bảy) viên ma túy hồng phiến và 01 (một) viên ma túy thuốc lắc màu tím hình lục giác. Qua kiểm tra xe ô tô 74A - 04178, tại nơi để chân ghế phụ vị trí ngồi của Lê Cảnh Hoài N phát hiện 01 (một) hộp giấy màu xanh bên trong có chứa nhiều viên nén và tinh thể rắn màu trắng; NH khai nhận là ma túy thuốc lắc và Ketamine vận chuyển giúp cho “NH” [2] Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2020/HS-ST ngày 04/9/2020, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

- Bị cáo Lê Cảnh Hoài N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm o khoản 2, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt Bị cáo Lê Cảnh Hoài N 06 (sáu) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Phạt bổ sung bị cáo Lê Cảnh Hoài N số tiền 30.000.000d! Căn cứ điểm h khoản 3 Điều 250; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt Bị cáo Lê Cảnh Hoài N 20 (hai mươi) năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” Căn cứ Điều 55 Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Lê Cảnh Hoài N phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 26 (hai mươi sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 19/02/2020.

- Bị cáo Trương Đức A phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm i khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt Bị cáo Trương Đức A 04 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 19/02/2020. Phạt bổ sung bị cáo Trương Đức A số tiền 30.000.000đ.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[3] Kháng cáo:

Ngày 14/9/2020 bị cáo Lê Cảnh Hoài N và bị cáo Trương Đức A cùng kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

[4] Tại phiên tòa phúc thẩm:

Các bị cáo kháng cáo đều giữ nguyên đơn kháng cáo với lý do hình phạt của Bản án sơ thẩm quá nặng so với khung hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên tòa có ý kiến: Thẩm phán, Thư ký Tòa án và những người tham gia tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Về nội dung đề nghị không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên hình phạt của bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền và các thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Đơn kháng cáo của các bị cáo là hợp lệ, các bị cáo không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì mới.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Lúc 15 giờ 45 phút ngày 19/02/2020, tại trước tiền sảnh siêu thị B, thuộc phường V, quận T, thành phố Đà Nẵng, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Đà Nẵng, phát hiện Lê Cảnh Hoài N đang vận chuyển giúp ma túy loại Methamphetamine, MDMA khối lượng 45,96 gam, loại Ketamine khối lượng 142,53 gam cho người có tên NH, từ thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị để giao cho đối tượng tên V tại Đà Nẵng. Đồng thời Lê Cảnh Hoài N đã mua 10 viên ma túy hồng phiến, NH và Trương Đức A đã sử dụng hết 3 viên, còn lại 7 viên thì NH đưa cho Trương Đức A cất giữ để sử dụng chung nên NH phải chịu trách nhiệm hình sự đối với 07 viên hồng phiến loại Methamphetamine có khối lượng 0,685 gam.

Trương Đức A bị bắt quả tang đang cất giữ ma túy loại Methamphetamine, MDMA khối lượng 1,066 gam cho Lê Cảnh Hoài N, mục đích để sử dụng.

Hành vi của bị cáo Lê Cảnh Hoài N đã phạm vào các tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự và “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h khoản 3 Điều 250 của Bộ luật Hình sự; Bị cáo Trương Đức A phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự; như Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Lê Cảnh Hoài N, bị cáo là người đã trực tiếp giao dịch với đối tượng tên NH về việc vận chuyển ma túy từ thành phố Đ vào thành phố Đà Nẵng để được nhận tiền công 20.000.000đ. Đồng thời là người đã trực tiếp mua ma túy loại hồng phiến về để sử dụng chung với bị cáo Trương Đức A. Bị cáo NH có nhân thân xấu, có hai tiền án và một tiền sự; bị cáo phải chịu tình tiết tái phạm nguy hiểm qui định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự nên bị cáo phải bị xử ở mức cao của khung hình phạt. Bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên đã được áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bản án sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để xử phạt bị cáo; tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ mới nên không chấp nhận kháng cáo.

[4] Xét kháng cáo của bị cáo Trương Đức A thì thấy Bị cáo A cũng có nhân thân xấu. Bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bản án sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để xử phạt; tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ mới nên không chấp nhận kháng cáo.

[5] Về án phí: các Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật là 200.000 đồng.

[6] Các quyết định khác còn lại của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự: không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lê Cảnh Hoài N và Trương Đức A, giữ nguyên mức hình phạt của Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2020/HS-ST ngày 04/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

2. Áp dụng điểm o khoản 2, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt Bị cáo Lê Cảnh Hoài N 06 (sáu) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Phạt bổ sung bị cáo Lê Cảnh Hoài N số tiền 30.000.000 đồng.

Áp dụng điểm h khoản 3 Điều 250; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt Bị cáo Lê Cảnh Hoài N 20 (hai mươi) năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

Căn cứ Điều 55 Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Lê Cảnh Hoài N phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 26 (hai mươi sáu) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 19/02/2020.

3. Áp dụng điểm i khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt Bị cáo Trương Đức A 04 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 19/02/2020. Phạt bổ sung bị cáo Trương Đức A số tiền 30.000.000 đồng.

4. Về án phí phúc thẩm: bị cáo Lê Cảnh Hoài N phải chịu 200.000 đồng, bị cáo Trương Đức A phải chịu 200.000 đồng.

5. Các quyết định khác còn lại của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực từ ngày hết thời hiệu kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

411
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 03/2020/HS-PT ngày 26/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và vận chuyển trái phép chất ma túy

Số hiệu:03/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;