Bản án 03/2020/HS-PT ngày 09/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 03/2020/HS-PT NGÀY 09/01/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 01 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 77/2019/TLPT-HS ngày 18 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo Lê Văn P do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 38/2019/HS-ST ngày 12 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Ninh Bình.

*Bị cáo có kháng cáo:

Lê Văn P, sinh năm 1980; tại huyện Y, tỉnh Ninh Bình; nơi cư trú: Xóm A, xã M, huyện Y, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp lao động tự do; trình độ văn hóa 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T và bà Đinh Thị T; có vợ: Nguyễn Thị L và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Tại bản án số 12/2007/HSST ngày 14/9/2007 Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Ninh Bình xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo kháng cáo, tại bản án phúc thẩm số 12/2007/HSPT ngày 26/11/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình cho bị cáo được hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng kể từ ngày tuyên án, bị cáo chấp hành xong bản án ngày 10/01/2008.

- Tại bản án số 109/2013/HSST ngày 15/8/2013 Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” , bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/9/2013 và ngày 8/11/2013 chấp hành xong án phí.

Bị cáo bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ từ ngày 04/9/2019 đến ngày 06/09/2019 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình (có mặt).

- Bị hại: Chị Vũ Thị T1, sinh năm 1975; nơi cư trú: xóm L, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình (không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị Tòa án không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 7 giờ ngày 04/9/2019 Lê Văn P đến dự đám cưới con gái ông Hoàng Văn N tại xã M, huyện Y, tỉnh Ninh Bình. Khi đến P dựng xe cách nhà ông N khoảng 50m rồi vào dự đám cưới. Khoảng 8 giờ 45 phút cùng ngày, P ra lấy xe về nhà thì phát hiện chiếc xe mô tô nhãn hiệu Hon da Wave S mầu đen có biển kiểm soát 35 M1 - 01480 của chị Vũ Thị T1 dựng cách vị trí xe của P khoảng 10 m, dưới cốp xe để lộ ra một phần của túi xách bằng vải mầu đen. P nảy sinh ý định trộm cắp tài sản, P quan sát xung quanh không thấy ai, liền đi đến dùng tay trái nâng yên xe mô tô lên còn tay phải cầm chiếc túi kéo ra khỏi cốp xe, kiểm tra thấy túi có 02 ngăn trong các ngăn đều có tiền nên P liền lấy toàn bộ số tiền có trong túi bỏ vào túi quần đang mặc, rồi cầm chiếc túi vất sang vườn nhà anh Trần Văn H. Sau khi lấy được tiền P đi về nhà, trên đường đi rẽ vào một quán tạp hóa lấy 100.000 đồng trong số tiền vừa trộm được mua 01 bao thuốc lá Thăng Long hết 10.000 đồng rồi đi về nhà. Về nhà đem số tiền ra đếm được 2.090.000 đồng.

Chị Vũ Thị T1 trình báo vụ việc đến cơ quan điều tra Công an huyện Y. Công an triệu tập Lê Văn P lên làm việc, P thừa nhận hành vi phạm tội của mình và giao nộp số tiền trộm cắp đang để trong người 2.090.000 đồng và tự giao nộp 10.000 đồng đã tiêu sài và 800.000 đồng của bản thân.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 38/2019/HS-ST ngày 12/11/2019 Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Ninh Bình đã xét xử và quyết định: Tuyên bố bị cáo Lê Văn P phạm tội “ Trộm cắp tài sản”. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt Lê Văn P 09 (Chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 04/9/2019.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo, bị hại theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm ngày 22/11/2019, bị cáo Lê Văn P có đơn kháng cáo đề nghị xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Văn P vẫn giữ yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình tại phiên tòa phúc thẩm xác định về hình thức đơn kháng cáo của bị cáo Lê Văn P làm trong hạn luật định nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm. Sau khi phân tích vụ án, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và yêu cầu kháng cáo của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng Điều 355 khoản 1 điểm b, Điều 357 khoản 1 điểm c Bộ luật Tố tụng hình sự: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Văn P; sửa bản án sơ thẩm số 38/2019/HSST ngày 12/11/2019 của Tòa án nhân huyện Y, tỉnh Ninh Bình về phần hình phạt. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt Lê Văn P 06 (Sáu) tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 04/9/2019.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo Lê Văn P không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hình thức đơn kháng cáo của bị cáo Lê Văn P làm trong hạn luật định nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Lê Văn P thừa nhận hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã nêu. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm cũng như phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Có đủ cơ sở để xác định vào khoảng 9 giờ ngày 04/9/2019 tại khu vực xã M, huyện Y, tỉnh Ninh Bình, lợi dụng sơ hở của chủ tài sản bị cáo Lê Văn P đã lén lút trộm cắp chiếc ví của chị Vũ Thị T1 bên trong có 2.100.000 đồng nhằm mục đích tiêu sài cá nhân. Hành vi nêu trên của bị cáo Lê Văn P đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xém xét kháng cáo của bị cáo thì thấy: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do bản án sơ thẩm đã tuyên phạt bị cáo 09 tháng tù là nặng. Xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo là đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự tại địa phương. Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ các quy định của pháp luật, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và tuyên phạt bị cáo 09 tháng tù là phù hợp, không nặng. Tuy nhiên trong quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm, vợ bị cáo là chị Nguyễn Thị L đã xuất trình đơn có xác nhận của chính quyền địa phương nội dung thể hiện gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bố mẹ hay ốm đau thường xuyên, bị cáo là lao động chính trong gia đình, năm 2015 bị cáo bị tai nạn gãy cột sống nên phải phẫu thuật đóng đinh ở cột sống, đây là tình tiết giảm nhẹ mới quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy tại cấp phúc thẩm bị cáo có tình tiết giảm nhẹ mới nên cần chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm số 38/2019/HS-ST ngày 12/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Ninh Bình về phần hình phạt đã tuyên đối với bị cáo, giảm nhẹ một phần hình phạt để bị cáo yên tâm cải tạo sớm trở về với gia đình và xã hội thể hiện chính sách nhân đạo và khoan hồng của pháp luật.

[4] Do yêu cầu kháng cáo của bị cáo Lê Văn P được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Văn P; sửa bản án hình sự sơ thẩm số 38/2019/HS-ST ngày 12/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Ninh Bình về phần hình phạt.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt: Bị cáo Lê Văn P 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 04/9/2019.

2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Lê Văn P không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 09/01/2020.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 03/2020/HS-PT ngày 09/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:03/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;