TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 03/2020/HS-PT NGÀY 07/01/2020 VỀ VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 07 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 391/2019/TLPT-HS ngày 05/12/2019 đối với bị cáo Lê Văn M về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 54/2019/HS-ST ngày 24/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.
* Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Lê Văn M, sinh năm 1968 tại tỉnh Hà Tĩnh; nơi cư trú: Đường Bùi X, phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 7/12; con ông Lê T và bà Bùi Thị V (đều đã chết); bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Ch, có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1993 và con nhỏ nhất sinh năm 2001; tiền án, tiền sự: không; bị cáo tại ngoại, có mặt.
Trong vụ án còn có người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng không kháng cáo.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ 15 phút ngày 28/9/2018, Lê Văn M điều khiển xe ô tô tải ben biển số 47K-8593 chở đất đi trên đường Nguyễn Trường T theo hướng từ tổ dân phố 2 đi tổ dân phố 10 thị trấn P để san lấp mặt bằng. Khi đến vị trí đổ đất ở bên trái đường theo hướng Lê Văn M điều khiển xe thì M điều khiển xe ô tô chạy sát mép đường bên trái. Lúc này Trần Văn H điều khiển xe mô tô biển số 47M1-586.52 chở Võ Tấn C, Hồ Văn S điều khiển xe mô tô biển số 47M1-584.35 chở A Lang Sôm T đi cùng chiều phía sau điều khiển xe đi bên phải đường để vượt xe ô tô. Ngay lúc đó, Lê Văn M đánh lái sang bên phải cho đầu xe chạy qua gần hết mặt đường nhựa bên phải rồi thực hiện lùi xe vào vị trí đổ đất ở bên trái đường, khi xe ô tô do M điều khiển đang lùi thì xảy ra va chạm với xe mô tô do Trần Văn H và Hồ Văn S điều khiển. Hậu quả Trần Văn H và Võ Tấn C tử vong, Hồ Văn S bị thương tích 30%, thiệt hại xe mô tô biển số 47M1-586.xx là 7.405.000 đồng và xe mô tô biển số 47M1-584.xx là 6.235.000 đồng.
Hiện trường vụ tai nạn giao thông nằm trên đường Nguyễn Trường T thuộc tổ dân phố C, thị trấn A, huyện P. Mặt đường được trải nhựa, tương đối bằng phẳng, rộng 7,5m, không có vạch kẻ phân chia làn đường; mặt đường phủ lớp đất nên bị hạn chế tầm nhìn do bụi khi có phương tiện đi qua.
Chọn mép đường bên phải theo hướng tổ dân phố 2 đi tổ dân phố 10 làm hướng chuẩn để tiến hành khám nghiệm, đo các dấu vết và phương tiện có liên quan.
Tại hiện trường có 02 điểm va chạm. Điểm va chạm thứ nhất là giữa xe mô tô biển số 47M1-586.xx với mâm bánh trước bên phải của xe ô tô biển số 47K-85xx nằm ở phần đường bên phải đường Nguyễn Trường T. Đo từ điểm va chạm đến mép đường chuẩn là 1,95m. Điểm va chạm thứ hai là giữa xe mô tô biển số 47M1-584.xx với tấm chắn bùn bên phải phía trước của xe ô tô biển số 47K-85xx nằm ở phần đường bên phải đường Nguyễn Trường T. Đo từ điểm va chạm đến mép đường chuẩn là 2,2m.
Tại bản kết luận pháp y tử thi số 355/PY -T.Th ngày 31/10/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận: Võ Tấn C tử vong do choáng đa chấn thương/ tai nạn giao thông.
Tại bản kết luận pháp y tử thi số 356/PY -T.Th ngày 31/10/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận: Trần Văn H tử vong do choáng đa chấn thương/ tai nạn giao thông.
Bản kết luận pháp y thương tích số 1325/PY-TgT ngày 16/11/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Hồ Văn S, đa thương, gãy xương đùi và xương mác cẳng chân trái, tỷ lệ thương tích là 30%.
Bản kết luận định giá tài sản số 82/KL-HĐĐG ngày 09/11/2018 của Hội đồng định giá tài sản huyện P, kết luận: Phần hư hỏng của xe mô tô biển số 47M1-586.xx, thiệt hại trị giá là 7.405.000 đồng.
Bản kết luận định giá tài sản số 83/KL-HĐĐG ngày 09/11/2018 của Hội đồng định giá tài sản huyện P, kết luận: Phần hư hỏng của xe mô tô biển số 47M1-584.xx, thiệt hại trị giá là 6.235.000 đồng.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 54/2019/HSST ngày 24/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc đã quyết định:
Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 260; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt: Bị cáo Lê Văn M 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Án sơ thẩm còn tuyên xử về xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 25/10/2019, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Đại điện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và khẳng định: Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm xác định nguyên nhân tai nạn do lỗi hoàn toàn thuộc về bị cáo là không đúng bởi lẽ đầu đường Nguyễn Trường T hướng từ tổ dân phố H đi tổ dân phố M có biển báo công trình đang thi công nhưng những bị hại không chấp hành đúng biển báo. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo đã bồi thường toàn bộ thiệt hại như án sơ thẩm đã tuyên và được đại diện gia đình bị hại làm đơn bãi nại cho bị cáo. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết áp dụng hình phạt tù mà cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo. Đề nghị HĐXX chấp nhận kháng cáo của bị cáo, áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 260; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Bị cáo không tranh luận gì với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai của bị cáo tại phiên toà phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 13 giờ 15 phút ngày 28/9/2018, tại đường Nguyễn Trường T thuộc tổ dân phố C, thị trấn A, huyện P, Lê Văn M điều khiển xe ô tô tải ben biển số 47K-85xx lùi xe không đảm bảo an toàn xảy ra va chạm với xe mô tô biển số 47M1-586.xx do Trần Văn H điều khiển chở Võ Tấn C ngồi sau và xe mô tô biển số 47M1-584.xx do Hồ Văn S điều khiển chở A Lang Sôm T. Hậu quả Trần Văn H, Võ Tấn C tử vong, Hồ Văn S bị thương tích 30%, thiệt hại xe mô tô biển số 47M1-586.xx là 7.405.000 đồng và xe mô tô biển số 47M1-584.xx là 6.235.000 đồng. Cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 260 BLHS là có căn cứ, đảm bảo đúng người, đúng tội.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo của bị cáo, HĐXX xét thấy:
Bị cáo là người đã được đào tạo và cấp giấy phép lái xe ô tô theo quy định nên bị cáo phải hiểu rõ những quy định của luật giao thông đường bộ. Nhưng do thiếu ý thức chấp hành pháp luật, bị cáo đã lùi xe ô tô ở nơi đường bụi, tầm nhìn bị che khuất và không đảm bảo an toàn gây tai nạn.
Tuy nhiên, HĐXX xét thấy cấp sơ thẩm xác định nguyên nhân dẫn đến tai nạn do lỗi hoàn toàn thuộc về bị cáo là không chính xác, bởi lẽ khi tham gia giao thông những người bị hại đều đã sử dụng rượu, bia. Đầu đường Nguyễn Trường T hướng từ Tổ dân phố H đi Tổ dân phố M thị trấn A có biển báo công trình đang thi công tốc độ 5km/1h nhưng khi điều khiển phương tiện đến đoạn đường bụi bị che khuất tầm nhìn, các bị hại không tuân thủ biển báo giảm tốc độ nên đã va chạm vào mâm trước và cản trước bánh phụ của xe ô tô do bị cáo Lê Văn M điều khiển. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo đã bồi thường thêm số tiền 30.000.000đ cho gia đình bị hại Võ Tấn C như án sơ thẩm đã tuyên, được gia đình bị hại làm đơn bãi nại cho bị cáo. Căn cứ vào nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ TNHS và các tình tiết có liên quan đến tai nạn thì thấy kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo có cơ sở chấp nhận.
Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, nguyên nhân tai nạn có một phần lỗi của người bị hại. Tại các phiên tòa đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội mà cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo tự cải tạo dưới sự giám sát của gia đình và chính quyền địa phương cũng đủ giáo dục đối với bị cáo.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
[1] Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự;
Chấp nhận nội dung đơn kháng cáo của bị cáo Lê Văn M. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số: 54/2019/HSST ngày 24/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc.
[2] Điều luật áp dụng và mức hình phạt:
Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 260; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Lê Văn M 03 (Ba) năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Thời gian thử thách là 05 (Năm) năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo Lê Văn M cho Ủy ban nhân dân phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo Lê Văn M cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.
[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Lê Văn M không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về