Bản án 03/2020/HS-PT ngày 06/01/2020 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 

BẢN ÁN 03/2020/HS-PT NGÀY 06/01/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 06/01/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 184/2019/TLPT-HS ngày 09/12/2019 đối với bị cáo Trần Thị L do có kháng nghị số 04/QĐ-VKSĐN ngày 08/11/2019 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng về phần hình phạt đối với bị cáo Trần Thị L tại Bản án hình sự sơ thẩm số 106/2019/HS-ST ngày 30/10/2019 của Tòa án nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng.

Bị cáo bị kháng nghị: Trần Thị L; Sinh năm 1968 tại Đà Nẵng; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: tổ 12, phường M, quận S, TP. Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 06/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Đ (c), con bà Ngô Thị X (c). Gia đình có 04 người con. Bị cáo là con thứ 3. Có chồng tên Đoàn Văn A (c) và có 04 con, con lớn nhất sinh 1990, nhỏ nhất sinh năm 2001.

Nhân thân: Ngày 25/8/2012, bị Công an quận S xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc trái phép với số tiền phạt 1.500.000đ.

Tiền sự: Ngày 04/5/2018 bị Ủy ban nhân dân quận S xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc trái phép với số tiền phạt 1.500.000 đồng;

Tiền án: chưa.

Bị cáo hiện đang tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 27/3/2019, Công an phường M, quận S kiểm tra hành chính tại nhà của ông Nguyễn Văn K và bà Nguyễn Thị C (tổ 12, phường M, quận S) thì phát hiện Trần Thị L cùng với Phạm Thị Thu T, Huỳnh Văn B, Nguyễn Thị X, Đinh Thị Y, Huỳnh Văn Tr, Trần Văn X’, Nguyễn Văn V, Nguyễn Thị L, Lê Văn N, Nguyễn Thị N’, Nguyễn Thị H và Đặng Văn Th đang đánh bạc dưới hình thức “Xì lát” được thua bằng tiền và tiến hành tạm giữ tang vật. Khi bị phát hiện, Đặng Văn Thtrốn khỏi sòng bạc.

* Vật chứng tạm giữ:

- Tại chiếu bạc: 06 bộ bài tây 52 lá, 01 chiếc mền bông màu đỏ tím, số tiền 600.000 đồng.

- Thu trên người các con bạc số tiền:

+ Huỳnh Văn B: Số tiền 125.000 đồng;

+ Nguyễn Thị X: Số tiền 40.000 đồng;

+ Đinh Thị Y: Số tiền 110.000 đồng;

+ Huỳnh Văn Tr: Số tiền 1.200.000 đồng;

+ Nguyễn Thị L: 100.000 đồng;

+ Lê Thị N: Số tiền 3.730.000 đồng.

+ Nguyễn Thị H: Số tiền 1.600.000 đồng (trong đó: 850.000 đồng của Hồng và 750.000 đồng Hồng lấy dưới chiếu bạc khi bị phát hiện).

+ Đặng Văn Th: 300.000 đồng.

* Hình thức đánh bạc:

Hình thức đánh bạc và tỷ lệ ăn thua được các đối tượng tham gia đánh bạc quy định như sau: Sử dụng bộ bài tây 52 lá để chơi, 01 người cầm cái, những người còn lại tham gia chơi được gọi là nhà con. Sau khi nhà con đặt tiền ra chiếu bạc thì nhà cái phát cho mỗi nhà 02 lá bài, số lá bài còn dư được để trên chiếc dĩa đặt giữa chiếu bạc. sau đó các nhà xem bài của mình, nếu cộng điểm 02 lá bài lại mà được dưới 16 điểm thì bắt buộc phải rút thêm, tối đa được rút thêm 03 lá bài, nhưng tổng điểm phải từ 21 điểm trở xuống, nếu trên 21 điểm là “quát”. Sau khi không có nhà con nào rút thêm bài thì nhà cái bắt đầu kiểm tra bài từng nhà con một và so sánh với bài của mình, ai lớn hơn là thắng. Nếu nhà cái thắng thì nhà cái lấy tiền của nhà con đặt, còn thua thì chung cho nhà con số tiền bằng với số tiền mà nhà con đặt. Lớn nhất của hình thức đánh bạc này là xì bàn (có 02 lá bài xì), đến xì lát (có 01 lá bài xì với 01 lá bài 10 hoặc J, hoặc Q, hoặc K), rồi đến ngũ linh (có 05 lá bài mà tổng điểm cộng lại được dưới 21 điểm). Cách tính điểm được quy ước từ 01 đến 10, tương ứng từ lá bài xì đến là bài 10; lá bài xì nếu có 03 lá bài thì có thể được tính 01 điểm hoặc 10 điểm hoặc 11 điểm; đối với các lá bài J, Q, K được tính 10 điểm.

Qua điều tra làm rõ: Sòng bạc được tổ chức cho các con bạc tham gia đánh bạc từ 12 giờ đến 14 giờ 30 ngày 27/3/2019 thì bị phát hiện. Mỗi ván con bạc đặt tiền từ 50.000 đồng đến 200.000 đồng. Sau mỗi lượt cầm cái, người cầm cái bỏ xâu 10.000 đồng vào một chiếc lon đặt tại sòng bạc. Số tiền mỗi con bạc mang theo và sử dụng vào mục đích đánh bạc như sau:

- Phạm Thị Thu T mang theo và sử dụng 500.000đ để đánh bạc. Tại thời điểm bị phát hiện, Trang chưa thắng thua.

- Huỳnh Văn B mang theo 500.000đ khi đi đánh bạc. Sử dụng 75.000đ mua nước uống và 425.000đ để đánh bạc, thua hết 300.000đ.

- Nguyễn Thị X mang theo và sử dụng 90.000đ để đánh bạc, thua số tiền 50.000đ.

- Đinh Thị Y mang theo theo 700.000đ nhưng chỉ khai nhận sử dụng 500.000đ để đánh bạc, đã thua hết 200.000đ.

- Huỳnh Văn Tr mang theo và sử dụng 1.700.000đ để đánh bạc, thua số tiền 500.000đ.

- Trần Văn X mang theo và sử dụng 200.000đ để đánh bạc, đặt 01 ván 200.000đ chưa kịp lật bài thì bị bắt tạm giữ số tiền 200.000đ tại chiếu bạc.

- Nguyễn Văn V mang theo và sử dụng 700.000đ để đánh bạc, thua số tiền 700.000đ.

- Trần Thị L mang theo và sử dụng 100.000đ để đánh bạc, thua số tiền 100.000đ.

- Nguyễn Thị Lựu mang theo và sử dụng 150.000đ để đánh bạc, thua số tiền 50.000đ.

- Lê Văn N’mang theo và sử dụng 500.000đ để đánh bạc, thua số tiền 200.000đ.

- Lê Thị N mang theo số tiền 3.800.000đ và Năm khai nhận sử dụng 20.000đ để mua nước uống và 780.000đ để đánh bạc, thua số tiền 50.000đ.

- Nguyễn Thị H mang theo và sử dụng 1.000.000đ để đánh bạc và thua số tiền 150.000đ.

- Đặng Văn Th mang theo và sử dụng số tiền 300.000đ để đánh bạc, khi bị phát hiện không thắng, không thua.

Tng số tiền các con bạc khai mang theo để sử dụng vào mục đích đánh bạc là: 6.945.000đ. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 106/2019/HS-ST ngày 30/10/2019 của Tòa án nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng đã quyết định: Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 36 Bộ luật Hình sự xử phạt: Bị cáo Trần Thị L 15 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”. Thời gian cải tạo tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo về Ủy ban nhân dân phường M, quận S, thành phố Đà Nẵng quản lý, giám sát và giáo dục.

Hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo số tiền 10.000.000 đồng.

Bản án sơ thẩm còn quyết định về phần xử lý vật chứng; án phí và quyền kháng cáo. Ngày 08/11/2019 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 04/QĐ-VKS với nội dung: Đề nghị TAND thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm vụ án theo hướng sửa bản án sơ thẩm số 106/2019/HSST ngày 30/10/2019 của TAND quận S, thành phố Đà Nẵng, không áp dụng Điều 36 BLHS cho bị cáo Trần Thị L và chuyển hình phạt từ cải tạo không giam giữ sang hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo Trần Thị L Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Về thủ tục: Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng có đầy đủ nội dung theo thủ tục kháng nghị và trong thời hạn nên đảm bảo hợp lệ. Về nội dung: Đối với Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng là có căn cứ do đó đề nghị HĐXX chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng xem xét căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và Điều 357 Bộ Luật tố tụng hình sự chấp nhận kháng nghị, sửa bản án sơ thẩm, không áp dụng Điều 36 BLHS và buộc hình phạt tù đối với bị cáo Trần Thị L.

Bị cáo Trần Thị L đề nghị được giữ nguyên án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Thị L đã thừa nhận: Trong khoảng thời gian từ 12 giờ 00 phút đến 14 giờ 30 phút ngày 27/3/2019, tại nhà của ông Nguyễn Văn K và bà Nguyễn Thị C, bị cáo đã cùng 12 người khác gồm Phạm Thị Thu T, Huỳnh Văn B, Nguyễn Thị X, Đinh Thị Y, Huỳnh Văn Tr, Trần Văn X’, Nguyễn Văn V, Nguyễn Thị L, Lê Văn N, Nguyễn Thị N’, Nguyễn Thị H và Đặng Văn Th đánh bạc dưới hình thức “Xì lát” được thua bằng tiền thì bị Công an phường M, quận S, TP. Đà Nẵng phát hiện và tạm giữ tang vật. Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ thì bị cáo và những người liên quan xác định đã đem theo trong người tổng cộng số tiền là 10.240.000đ, số tiền dùng vào mục đích đánh bạc là 6.945.000đ chứ không phải 4.805.000đ như Bản án sơ thẩm đã nhận định. Với số tiền dùng để sử dụng vào mục đích đánh bạc này đã đủ yếu tố cấu thành tội đánh bạc nhưng do số tiền đánh bạc không lớn, các đối tượng tham gia đánh bạc đều có nhân thân tốt, vi phạm lần đầu nên cơ quan Công an quận S đã ra quyết định xử lý hành chính bằng hình thức phạt tiền, HĐXX xét thấy cũng thỏa đáng. Riêng đối với Trần Thị L, là người có nhân thân xấu, có một tiền sự vào ngày 04/5/2018 bị Ủy ban nhân dân quận S xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc trái phép với số tiền phạt 1.500.000đ. Trước đó, ngày 25/8/2012, bị cáo bị Công an quận S xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc với số tiền phạt 1.500.000đ. Nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân, không chấp hành các qui định của pháp luật nên cần phải xử lý theo quy định của Bộ luật hình sự là đúng.

Hành vi của bị cáo Trần Thị L đã trực tiếp xâm hại đến trật tự quản lý công cộng của Nhà nước, làm ảnh hưởng xấu đến an toàn xã hội. Bản án hình sự sơ thẩm số 106/2019/HS-ST ngày 30/10/2019 của Tòa án nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo Trần Thị L về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[2] Xét kháng nghị của Viện kiểm sát thì thấy: Do trong quá trình điều tra, xét xử, bị cáo Trần Thị L đã khai báo thành khẩn, lần đầu phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; số tiền dùng để đánh bạc chỉ có 100.000đ là không lớn, có nơi cư trú rõ ràng, xét thấy không cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội nhưng vẫn đảm bảo tính giáo dục, phòng ngừa nên HĐXX cấp sơ thẩm đã áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; Điều 36 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo mức án 15 tháng cải tạo không giam giữ và phạt bổ sung số tiền 10.000.000đ. HĐXX cấp phúc thẩm xét thấy, tuy cấp sơ thẩm không vi phạm tố tụng nhưng với mức án như vậy là chưa thỏa đáng, không phù hợp với nhân thân của bị cáo, không đủ sức giáo dục, răn đe đối với bị cáo. Vì vậy HĐXX cấp phúc thẩm chấp nhận Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng; Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 của Bộ luật TTHS sửa Bản án sơ thẩm về phần hình phạt, không cho bị cáo được áp dụng hình phạt chính là cải tạo không giam giữ, chuyển từ hình phạt cải tạo không giam giữ sang hình phạt tù có thời hạn.

[3] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và Điều 357 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 04/QĐ-VKSĐN ngày 08/11/2019 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng về phần hình phạt đối với bị cáo Trần Thị L tại Bản án hình sự sơ thẩm số 106/2019/HSST ngày 30/10/2019 của Tòa án nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng; Sửa bản án sơ thẩm.

2. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 54 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Trần Thị L 05 (năm) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời gian chấp hành án kể từ ngày bắt giam thi hành án.

3. Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

269
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 03/2020/HS-PT ngày 06/01/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:03/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;