Bản án 03/2020/HNGĐ-ST ngày 16/01/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung giữa anh H, chị Đ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BN ÁN 03/2020/HNGĐ-ST NGÀY 16/01/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG GIỮA ANH H, CHỊ Đ

Ngày 16 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 264/2019/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 10 năm 2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 68/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 12 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Dương Văn H, sinh năm 1976; nơi cư trú: Thôn G, xã Q, huyện B, thành phố Hải Phòng

2. Bị đơn: Chị Vũ Thị Đ, sinh năm 1984; nơi cư trú: Thôn T, xã H1, huyện P, tỉnh Thái Bình 

(Anh H có mặt, chị Đ vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 09/9/2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn là anh Dương Văn H trình bày: Anh và chị Vũ Thị Đ tự nguyện tìm hiểu, được Ủy ban nhân dân xã Q, huyện B, thành phố Hải Phòng cấp giấy chứng nhận kết hôn số 41/KH ngày 15/11/2004. Sau khi kết hôn, vợ chồng anh chung sống tại gia đình chị Đ ở xã H1, huyện P, tình cảm vợ chồng hòa thuận đến năm 2010 thì mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, mâu thuẫn tăng thêm khi chị Đ muốn đi lao động tại Đài Loan nhưng anh không đống ý. Cuối năm 2010 mâu thuẫn trầm trọng, anh đã đưa con về quê tại huyện B, Thành phố Hải Phòng sinh sống, từ đó đến nay hai bên không hỏi han quan tâm đến nhau. Nay anh thấy tình cảm vợ chồng thực sự không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, anh xin được ly hôn chị Đ.

Vợ chồng có một con chung là Dương Văn Ph, sinh ngày 26/4/2005, hiện đang ở với anh, anh xin được nuôi con chung và không yêu cầu chị Đ cấp dưỡng cho con.

Vợ chồng không có tài sản chung, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đi với bị đơn là chị Vũ Thị Đ: Tòa án đã triệu tập nhiều lần nhưng chị Đ vắng mặt không có lý do, Tòa án đã đến gia đình chị Đ giao Thông báo về việc thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho chị Đ, nhưng chị Đ không nhận các văn bản tố tụng và có ý kiến từ chối làm việc với Tòa án. Tòa án đã niêm yết các văn bản tố tụng tại nơi chị Đ cư trú theo quy định của pháp luật.

Kết quả xác minh với chính quyền địa phương xã H1, huyện P, tỉnh Thái Bình được cung cấp: Anh H và chị Đ sau khi kết hôn sinh sống tại gia đình chị Đ ở xã H1, huyện P. Địa phương không rõ nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng, nhưng từ khoảng cuối năm 2010 cho đến nay anh H và con chung không ở nhà chị Đ nữa; đối với chị Đ hiện đang sinh sống ở địa phương cùng gia đình chị Đ.

Ý kiến của con chung, cháu Dương Văn Ph trình bày: Từ năm 2010 đến nay cháu sống với bố là Dương Văn H tại huyện B, Thành phố Hải Phòng được nuôi ăn học đầy đủ, mẹ cháu không đến thăm cháu lần nào, nguyện vọng của cháu muốn được ở với bố.

Trong đơn trình bày của anh H đề ngày 16/10/2019 được UBND xã Q, huyện B, Thành phố Hải Phòng xác nhận, anh trình bày: Từ năm 2010, anh đưa con về xã Q, huyện B sinh sống, anh vẫn đảm bảo việc ăn học cho con chu đáo, phát triển bình thường, hiện con đang học lớp 9A2 trường trung học cơ sở Q, huyện B; hiện anh đang làm thợ xây, thu nhập bình quân từ 5.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng/tháng.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình về giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đều tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, đối với bị đơn vắng mặt, do đó Viện kiểm sát không đưa ra quan điểm chấp hành pháp luật của bị đơn tại phiên tòa.

Về nội dung: Đề nghị HĐXX căn cứ vào các điều 51, 56, 81, 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, xử cho anh Dương Văn H được ly hôn chị Vũ Thị Đ; giao con chung Dương Văn Ph, sinh ngày 26/4/2005 cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, việc cấp dưỡng cho con do anh H không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết; anh H khai vợ chồng không có tài sản chung, chị Đ vắng mặt nên không giải quyết về phân chia tài sản; anh H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định

[1] Về tố tụng: Anh Dương Văn H khởi kiện xin ly hôn chị Vũ Thị Đ có nơi cư trú tại xã H1, huyện P, tỉnh Thái Bình, căn cứ các điều 28, 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thẩm quyền giải quyết vụ án thuộc Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình; bị đơn là chị Vũ Thị Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về nội dung vụ án:

Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa anh Dương Văn H và chị Vũ Thị Đ xây dựng trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân dân xã Q, huyện B, Thành phố Hải Phòng cấp giấy chứng nhận kết hôn số 41/KH ngày 15/11/2004 là hôn nhân hợp pháp. Theo trình bày của anh H và kết quả xác minh cho thấy, trong cuộc sống chung giữa vợ chồng anh H, chị Đ có mâu thuẫn, nguyên nhân chính do bất đồng quan điểm sống. Năm 2010, mâu thuẫn trầm trọng, anh H đã đưa con về quê anh ở Thành phố Hải Phòng sinh sống, từ đó đến nay vợ chồng không quan tâm tới nhau; nay anh H xin ly hôn, chị Đ được triệu tập hợp lệ nhưng từ chối làm việc với Tòa án và không có mặt tham gia tố tụng, điều đó cho thấy chị Đ cũng không có thiện chí hàn gắn mối quan hệ hôn nhân này. Xét thấy, anh chị đã tự giải tán mối quan hệ hôn nhân của mình hơn 9 năm nay, không còn quan tâm đến cuộc sống của nhau, hôn nhân của anh chị thực tế chỉ còn tồn tại về mặt hình thức, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó cần xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh H, xử cho anh H được ly hôn chị Đ là phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Về nuôi con chung: Anh Dương Văn H và chị Vũ Thị Đ có một con chung là Dương Văn Ph, sinh ngày 26/4/2005. Xét yêu cầu xin được trực tiếp nuôi dưỡng con chung của anh H là phù hợp với thực tế từ khi anh chị không chung sống cùng nhau con chung vẫn ở với anh H, mặc dù chị Đ không thăm và chu cấp cho con nhưng anh H vẫn nuôi con ăn học và phát triển bình thường; con chung cũng có đơn trình bày nguyện vọng muốn được ở với anh H, do đó cần chấp nhận yêu cầu của anh H là phù hợp với quy định tại các điều 81, 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình. Do anh H không yêu cầu chị Đ cấp dưỡng cho con nên không đặt ra giải quyết.

Về chia tài sản chung: Anh Dương Văn H khai vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết; quá trình giải quyết vụ án chị Vũ Thị Đ vắng mặt, Tòa án không lấy được lời khai của chị Đ, do đó Hội đồng xét xử không xét.

[3] Về án phí: Anh Dương Văn H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[4] Về quyền kháng cáo: Anh Dương Văn H và chị Vũ Thị Đ có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 56, 81, 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 2 Điều 227, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Xử cho anh Dương Văn H được ly hôn chị Vũ Thị Đ.

2. Về nuôi con chung: Giao cho anh Dương Văn H trực tiếp nuôi dưỡng con chung Dương Văn Ph, sinh ngày 26/4/2005 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi theo quy định của pháp luật.

Anh Dương Văn H không yêu cầu chị Vũ Thị Đ cấp dưỡng cho con. Chị Vũ Thị Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung.

3. Về chia tài sản: Dương Văn H khai vợ chồng không có tài sản chung, chị Vũ Thị Đ vắng mặt nên không giải quyết trong vụ án này.

4. Về án phí: Anh Dương Văn H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Chuyển số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) anh H đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0004145 ngày 01 tháng 10 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình thành tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Anh Dương Văn H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; chị Vũ Thị Đ có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 03/2020/HNGĐ-ST ngày 16/01/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung giữa anh H, chị Đ

Số hiệu:03/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;