Bản án 03/2019/HSST ngày 25/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỦA CHÙA, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 03/2019/HSST NGÀY 25/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 6 năm 2019, tại Trường Mầm non số 1, xã M, huyện T, tỉnh Điện Biên, Tòa án nhân dân huyện Tủa Chùa tiến hành mở phiên tòa xét xử công khai lưu động vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 04/2019/TLST-HS ngày 17/5/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2019/QĐXXST-HS ngày 14/6/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Thị N - tên gọi khác: Lò Thị H; sinh năm 1981 tại huyện T, tỉnh Điện Biên; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Đội 7, xã M, huyện T, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: làm ruộng; Trình độ văn hóa: 08/12; Con ông: Lò Văn T (đã chết) và bà Quàng Thị O - sinh năm 1958; Chồng là Điêu Chính H- sinh năm 1976 và 03 con, con lớn nhất 18 tuổi, con nhỏ nhất 07 tuổi; Tiền sự: Không. Tiền án: Không; Tạm giữ từ ngày 09/01/2019, tạm giam từ ngày 12/01/2019 đến nay. Bị cáo tạm giam có mặt tại phiên tòa.

Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Lò Thị Nh - sinh năm 1988; Trú tại: Bản Cáp, thị trấn T, huyện T Chùa, tỉnh Điện Biên. / Có mặt

+ Quàng Văn D - sinh năm 1992; Trú tại: Bản Cáp, thị trấn T, huyện T, tỉnh Điện Biên. / Vắng mặt

Người phiên dịch: bà Lò Thị Tình- SN 1980; trú tại: Đội 3, xã M, huyện T, tỉnh Điện Biên. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 09/01/2019, bị cáo một mình đi xe mô tô vào tổ dân phố Bản C, thị trấn T, huyện T, mục đích để tìm mua tóc rối về bán, khi vào Bản C bị cáo gặp một người phụ nữ dân tộc Thái (bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ), người phụ nữ hỏi bị cáo có mua ma túy không, bị cáo hỏi “mua để làm gì?”, người phụ nữ nói “mua để làm thuốc chữa bệnh cho trâu bò, lợn gà”, nghe vậy bị cáo đã đồng ý mua. Bị cáo đưa cho người phụ nữ số tiền 1.000.000đ, người đó đưa lại cho bị cáo 02 gói ma túy, trong đó có 01 gói được gói ngoài bằng giấy linon màu trắng và 01 gói được gói ngoài bằng giấy linon màu đen. Sau khi mua ma túy bị cáo cầm trên tay rồi điều khiển xe mô tô đi về nhà. Khi về đến nhà, bị cáo cắm điện nấu cơm, cắm xong nồi cơm bị cáo giấu hai gói ma túy trong lòng bàn chân phải và điều khiển xe mô tô đi lấy củi tại thôn P xã M. Khi đi đến đoạn đường ngã ba thuộc thôn P lúc đó là 12 giờ 30 phút, bị cáo đã bị tổ công tác Công an huyện T phát hiện và bắt quả tang về hành vi cất giấu trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ quả tang gồm:

- 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE S, biển kiểm soát 27T1-045.64;

- 01 gói nhỏ được gói ngoài bằng miếng linon màu trắng bên trong có các cục chất bột màu trắng thể rắn;

- 01 gói nhỏ được gói ngoài bằng miếng giấy linon màu đen bên trong có 02 gói nhỏ được gói ngoài bằng miếng giấy linon màu hồng và 02 viên nén màu hồng có chữ “WY”, bên trong 02 gói màu hồng mỗi gói có 01 cục chất bột màu trắng thể rắn.

Kết luận giám định số 221/GĐ-PC09 ngày 22/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Lò Thị N gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine- có khối lượng 7,5488 gam, Mẫu viên nén màu hồng gửi giám định là chất ma túy: loại Methamphetamine có khối lượng 0,1954 gam; Heroine và Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy theo Nghị định số 73/2018/NĐ-CP của Chính Phủ.

Quá trình điều tra, cơ quan cảnh sát điều tra đã xử lý vật chứng trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Quàng Văn D 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA; số loại WAVE S, biển kiểm soát 27T1-045.64.

Cáo trạng số 03/CT-VKSHTC ngày 17 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tủa Chùa truy tố bị cáo Lò Thị N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm n khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 điều 51 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 05 năm đến 06 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Về vật chứng, đề nghị chấp nhận quyết định xử lý vật chứng của cơ quan điều tra về việc trả lại 01 chiếc xe mô tô cho chủ sở hữu hợp pháp, tịch thu tiêu hủy số heroine còn lại, đề nghị miễn án phí hình sự cho bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố và giữ nguyên lời khai của bị cáo tại cơ quan Điều tra. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát và xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Xét người vắng mặt đã có lời khai trong quá trình điều tra và sự vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử nên HĐXX quyết định xét xử vắng mặt họ theo quy định tại Điều 292 của BLTTHS.

[2] Về nội dung vụ án:

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến bắt quả tang bị cáo, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng; kết quả thực nghiệm điều tra; biên bản mở niêm phong, xác định trọng lượng và bản kết luận giám định.

Có đủ cơ sở kết luận vào hồi 10 giờ ngày 09/01/2019 bị cáo đã một mình mua 02 gói ma túy trị giá 1.000.000đ của một người phụ nữ dân tộc Thái tại khu vực tổ dân phố Bản C, thị trấn T, mục đích bị cáo mua ma túy là để làm thuốc chữa bệnh cho gia súc, gia cầm. Sau khi mua được, trên đường đi vào thôn P xã M, bị cáo đã bị tổ công tác Công an huyện phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đã cố ý mua 7,5488 gam heroine và 0,1954 gam Methamphetamine, tổng cộng khối lượng 02 chất ma túy bị cáo đã mua và cất giấu là 7,7442 gam chất ma túy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Bị cáo không có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu; Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về toàn bộ hành vi phạm tội của mình nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điều 52 của BLHS.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 điều 249 của BLHS, người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ, nhưng xét thấy bị cáo làm nông nghiệp, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, điều kiện kinh tế không có nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về các vấn đề khác có liên quan:

Đối với người phụ nữ đã bán ma túy cho bị cáo, quá trình Điều tra và tại phiên tòa không xác định được họ tên, địa chỉ, nên HĐXX không có cơ sở để xem xét, xử lý.

Đối với Quàng Văn D và Lò Thị Nh là người đã cho bị cáo mượn xe mô tô,

quá trình điều tra và tại phiên tòa đã làm rõ những người này không biết việc bị cáo sử dụng xe để mua và vận chuyển chất ma túy nên không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

[6] Về vật chứng vụ án:

- 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 27T1-045.64, cơ quan điều tra đã xử lý bằng hình thức trả lại chủ sở hữu hợp pháp là phù hợp với quy định, HĐXX chấp nhận.

- Đối với số Heroine còn lại là vật cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo là dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nên cần miễn toàn bộ án phí cho bị cáo theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

[8] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Thị N (tên khác là Lò Thị H) phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Hình phạt: Áp dụng điểm n khoản 2 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự,

Xử phạt bị cáo Lò Thị N 05 (năm) năm 10 (mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/01/2019.

3. Về vật chứng vụ án:

Áp dụng Điểm b Khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Chấp nhận quyết định xử lý vật chứng của cơ quan cảnh sát điều tra về việc trả lại 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE S, biển kiểm soát 27T1-045.64 cho anh Quàng Văn D là chủ sở hữu hợp pháp.

- Tịch thu tiêu hủy: Số heroine còn lại gồm 6,9333 gam thu giữ của bị cáo.

Số vật chứng trên cơ quan Thi hành án dân sự huyện Tủa Chùa đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan điều tra và Chi cục thi hành án dân sự huyện Tủa Chùa.

4. Về án phí:

Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án: Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

5. Kháng cáo:

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 25/06/2019), đối với người vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 03/2019/HSST ngày 25/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:03/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tủa Chùa - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;