Bản án 03/2019/HS-ST ngày 16/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 03/2019/HS-ST NGÀY 16/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 160/2018/TLST-HS ngày 27 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số04/2019/QĐXXST-HS ngày04 tháng 01 năm 2019đối với bị cáo:

Phạm Quốc Đ, sinh năm 1977; Nơi cư trú: tổ dân phố N, phường C, thành phố P, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh;giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ôngPhạm Quốc S, sinh năm 1949 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1949; vợ: Hà Thị Đ; con: chưa có; tiền án: Ngày 26/7/2012 bị Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Ngày 12/12/2014 bị Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt 36 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 24/4/1997 bị Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”; Ngày 09/7/1998 bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”; Ngày 19/10/2006 bị Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam xử phạt 15 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 08/5/2007 Chủ tịch UBND thị xã P ra quyết định về việc đưa đối tượng nghiện ma túy vào cơ sở chữa bệnh, thời gian 24 tháng. Bị tạm giữ từ ngày 24/10/2018 đến ngày 30/10/2018 chuyển tạm giam cho đến nay. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Hà Thị P, sinh năm 1974; Trú tại: tổ dân phố N 2, phường C, thành phố P, tỉnh Hà Nam. Có mặt.

- Người làm chứng: Anh Phạm Nguyên N, sinh năm 1976; Trú tại: tổ dân phố L, phường C, thành phố P, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 24/10/2018, Phạm Quốc Đ điều khiển xe mô tô Biển kiểm soát 90F2-9902 đi đám ở phường T, khi đi đến khu vực tổ 3, phường T, thành phố P thì gặp bạn nghiện tên T (thường gọi là T S) nhà ở phường Th, thành phố P. Đ bảo với Tr còn 400.000đ để cho một ít, T bảo đưa tiền đây. Đ đưa cho T 400.000đ, T cầm tiền đi một lúc sau quay lại đưa cho Đ 01 gói giấy bạc màu vàng, Đ cầm bỏ vào túi quần đang mặc rồi tiếp tục đi ăn đám. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, trên đường đi về Đ vào một hiệu thuốc tây ven đường mua xi lanh và ống nước cất và đi đến nghĩa trang thuộc tổ dân phố L, phường C, thành phố P lấy gói ma túy trong túi quần ra cắt một ít để sử dụng bằng hình thức tiêm chích. Số ma túy còn lại Đ cất vào túi quần đang mặc và điều khiển xe đi đến đến tổ dân phố L, phường C, thành phố P thì bị lực lượng Công an phường C yêu cầu kiểm tra. Tại chỗ Đ tự giác giao nộp cho lực lượng Công an 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục và khai nhận đó là gói ma túy, mục đích cất giấu để sử dụng. Lực lượng Công an đã đưa Đ cùng tang vật về Trụ sở lâp biên bản theo quy định của pháp luật.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 xe mô tô nhãn hiệu Loncin màu xanh Biển kiểm soát 90F2-9902 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu xanh.

Thực hiện lệnh khám xét nơi ở đồ vật của bị cáo không thu giữ, tài liệu đồ vật gì.

Tại bản kết luận giám định số 169/PC09-MT ngày 27/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận:“Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,190g, loại heroine”.

- Bản cáo trạng số 05/CT-VKSPL ngày 26/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý truy tố Phạm Quốc Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015(đã được sửa đổi bổ sung năm 2017).

-Tại phiên tòa,Đ diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như đã nêu trong bản cáo trạng, không thay đổi, bổ sung về nội dung đã truy tố đối với bị cáo Phạm Quốc Đ. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụngđiểm okhoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề xuất mức hình phạt đối với bị cáo từ 5 năm6 tháng đến 6 năm tù và hướng xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật. Bị cáo phạm tội không nhằm mục đích trục lợi nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

- Bị cáo Phạm Quốc Đđã khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố, không tranh luận và không có lời tự bào chữa chỉ xin Hội đồng xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Chị Hà Thị P đề nghị: Năm 2011 chị mua chiếc xe máy biển kiểm soát 90F2-9902 của Phạm Quốc Đ với giá 3.000.000đ, khi mua không làm giấy tờ mua bán.Đ đã nhận tiền và giao xe, giấy tờ xe cho chị, sau khi mua chị chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ, chị P đã sử dụng chiếc xe trên từ năm 2011 đến ngày 24/10/2018 Đđến mượn chiếc xe trên, chị không biết Đ sử dụng xe vào việc phạm tội nay chị có nguyện vọng xin lại chiếc xe trên để sử dụng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xửnhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt là đúng pháp luật.

[3] Đánh giá về tội danh: Đối chiếu lời khai thành khẩn nhận tội của bị cáo tại phiên tòa với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra. Hội đồng xét xử thấy cơ bản phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người làm chứng về thời gian, địa điểm, diễn biến vụ án, bản kết luận giám định của cơ quan chuyên môn cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được cơ quan điều tra thu thập theo trình tự luật định, phản ánh đúng sự thật khách quan của vụ án.

Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ45 phút ngày 24/10/2018 tại Khu vực tổ dân phố L, phường C, thành phố P, tỉnh Hà Nam, Phạm Quốc Đ đang cất giấu trái phép 0,190gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Công an phường C, thành phố P phát hiện bắt quả tang. Heroine là chất ma túy nằm trong danh mục I số thứ tự 9 Nghị định số 73/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính Phủ.Trước đó bị cáo đã có hai tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Mua bán trái phép chất ma túy chưa được xóa án tích, Bản án số 149/HSST ngày 12/12/2014 xác định bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nay tiếp tục phạm tội với lỗi cố ý nên lần này bị cáo phạm tội thuộc trường hợp định khung tăng nặng  “tái phạm nguy hiểm” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Quan điểm truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối bị cáo: Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân rất xấu, coi thường, bất chấp pháp luật từ năm 1997 đến năm 2014 đã 05 lần bị Tòa án các cấp xét xử về nhóm tội chiếm đoạt tài sản và ma túy, (trong đó có 02 tiền án chưa được xóa án tích); một lần bị áp dụng biện pháp chữa bệnh bắt buộccai nghiện vào năm 2007. nhưng không lấy đó làm bài học tu sửa bản thân trở thành công dân tốt. Sau khi đi chấp hành án xong trở về địa phương lại tiếp tục phạm tội với tính chất lần sau nguy hiểm hơn lần trước.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định của pháp luật.

[5] Về hình phạt chính, hình phạt bổ sung: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh trật tự an toàn xã hội là nguyên nhân làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm nguy hiểm khác.Vì vậy cần áp dụng hình phạt tù nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà bị cáo đã thực hiện để giáo dục, răn đe và nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng ngừa chung.

Hình phạt bổ sung: Xét mục đích phạm tội của bị cáo không nhằm thu lời bất chính nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo đề nghị của Đ diện Viện kiểm sát là có căn cứ pháp luật.

[6] Về nguồn gốc số ma túy đã thu giữ: Bị cáo khai mua của một người đàn ông tên T (TS) nhà ở phường T , thành phố P. Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra đã tiến hành xác minh trên địa bàn phường T ở tổ 5, có Hoàng Văn T, sinh năm 1974. Cơ quan cảnh sát điều tra đã nhiều lần triệu tập T lên làm việc nhưng T không có mặt tại địa phương. Ngoài lời khai của Đ thì không còn tài liệu nào khác chứng minh T đã bán ma túy cho Đ vào ngày 24/10/2018 nên chưa có căn cứ để xử lý T trong vụ án này.

[7] Về vật chứng và xử lý vật chứng đã thu giữ:

- Đối với toàn bộ số Heroine cùng bao gói hoàn trả sau giám định cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với chiếc xemôt tô nhãn hiệu Loncin màu xanh biển kiểm soát 90F2-9902, quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của chị Hà Thị P (chị vợ) bị cáo. Chị P cho bị cáo mượn xe nhưng không biết bị cáo sử dụng vào việc phạm tội. Cần trả lại chiếc xe trên cho chủ sở hữu hợp pháp chị Hà Thị P là phù hợp pháp luật.

- Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Messtel màu xanh là tài sản hợp pháp của bị cáo không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo chiếc điện thoại trên là phù hợp.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm okhoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1, Điều 51, Điều 38, Điều 47, Điều 50 Bộ luật Hình sự;

- Căn cứcác Điều 106, 136,331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Căn cứ Luật phí và lệ phí 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1/ Tuyên bố bị cáoPhạm Quốc Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt: Bị cáo Phạm Quốc Đ 05 năm 6 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/10/2018.

2/ Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01(một) phong bì đã niêm phong số 169/PC09-MT mặt trước phong bì ghi mẫu vật hoàn trả QT01 có chữ ký và dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam.

- Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu xanh, số Imel 1301014139942335.

- Trả lại chị Hà Thị P 01 xe mô tô nhãn hiệu Loncin màu xanh, biển kiểm soát 90F2-9902, số máy 02017869, số khung 02017869.

Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam với Chi cục thi hành án dân sự, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam ngày28/12/2018.

3/ Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Phạm Quốc Đ phải nộp 200.000đ.

Án xử công khai sơ thẩm bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 03/2019/HS-ST ngày 16/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:03/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;