Bản án 03/2019/HSST ngày 15/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 03/2019/HSST NGÀY 15/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay ngày 15 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 04/2018/HSST ngày 19/12/2018, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2019/QĐXXST-HS ngày 05/01/2019 đối với bị cáo:

Phạm Đức H (tên gọi khác: không), sinh ngày 16/04/1995, tại huyện D, tỉnh Nghệ An; nơi ĐKNK thường trú: Xóm 6, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An; chỗ ở hiện nay: Tổ 5, phường C, thành phố S, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Đảng phái, đoàn thể: không; bị cáo con ông Cao Đức S (đã chết) và bà Hoàng Thị L, sinh năm 1966; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ tạm giam từ ngày 02/08/2018 đến nay, bị cáo có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Đức H làm thuê với công việc là trông coi tại quán điện tử MID GAME thuộc tổ 4, phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La. Khoảng 14h 30 phút, ngày 02/8/2018, H đã hỏi mua được của 01 người nam giới (không biết cụ thể họ, tên, tuổi, địa chỉ ở đâu) đến chơi điện tử tại quán 13 viên Hồng phiến với giá 1.300.000,đ. Phạm Đức H về phòng ngủ (liền kề với quán) chia số ma túy thành 3 gói, phần thứ nhất 2 viên cất tại túi quần bên trái đang mặc, gói thứ 2 có 3 viên cất tại ngăn bàn gỗ ép màu vàng trong phòng kinh doanh quán game, gói thứ 3 gồm 8 viên để trên bàn gỗ ép tại phòng ngủ của H. Đến 15 giờ cùng ngày thì bị bắt quả tang và thu giữ trên người Phạm Đức H 2 viên hồng phiến. Khám xét nhà thu giữ 11 viên nén màu hồng.

Ngày 02/8/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La đã tiến hành bóc, mở niêm phong, cân tịnh vật chứng và lấy mẫu gửi giám định. Kết quả: 13 viên nén màu hồng có tổng khối lượng 1,26 gam. Lấy 08 viên màu hồng có tổng khối lượng 0,77 gam ký hiệu H1, H2, H3 làm mẫu gửi giám định chất ma túy; còn lại 0,49 gam ký hiệu H4 lưu kho.

Ngày 02/8/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La ra Quyết định trưng cầu giám định số 1321/QĐ, đối với mẫu gửi giám định có phải là chất ma túy không? Loại chất ma túy gì? Khối lượng của mẫu gửi giám định là bao nhiêu? tổng khối lượng vật chứng thu giữ?

Kết luận giám định số 944 ngày 07/8/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu giám định ký hiệu H1, H2, H3 đều là ma túy; Loại Methamphetamine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,77 gam. Tổng khối lượng chất ma túy thu giữ là 1,26 gam; loại Methamphetamine”.

Tại bản cáo trạng số: 154/CT-VKS ngày 18/12/2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đã truy tố bị cáo Phạm Đức H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La giữ quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Đức H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; Xử phạt bị cáo Phạm Đức H từ 24 đến 30 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,49 gam Methamphetamine cùng vỏ vật chứng đã niêm phong.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa: Bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết quả cân tịnh vật chứng, kết luận giám định; nhất trí với Quyết định truy tố của Viện kiểm sát; nhất trí với bản luận tội cũng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phần tranh luận; bị cáo tỏ ra ăn năn và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Phạm Đức H đều có lời khai nhận tội thống nhất với nội dung đã cất giữ 1,26 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân. Lời khai của bị cáo phù hợp với kết quả điều tra như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang được lập hồi 15 giờ 15 phút ngày 02/8/2018, tại tổ 4, phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La đối với Phạm Đức H cùng vật chứng thu giữ là 1,26 gam viên nén màu hồng kết luận giám định là Methamphetamine. Đồng thời phù hợp với lời khai của Hoàng Anh T người đã chứng kiến Cơ quan điều tra bắt quả tang đối với Phạm Đức H.

[3] Với các căn cứ chứng minh trên đã có đủ cơ sở kết luận, ngày 02/8/2018 bị cáo Phạm Đức H đã có hành vi cất giữ trái phép 1,26 gam ma túy, là chất Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, đã trực tiếp xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Khi thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị cáo đã thành niên, có đủ khả năng nhận thức cũng như điều khiển hành vi. Theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự thì “Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c,… Methamphetamine …có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam ” Như vậy hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đều thành khẩn khai báo tỏ ra ăn năn hối hận. Do đó bị cáo Phạm Đức H được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng. Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đối chiếu với các quy định pháp luật, Hội đồng xét xử thấy cần thiết xử phạt bị cáo với mức hình phạt tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, đảm bảo biện pháp cải tạo, giáo dục riêng, phòng ngừa tội phạm chung.

[7] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn là đối tượng nghiện chất ma túy, nghề nghiệp không ổn định, thu nhập thấp, không có tài sản có giá trị, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về vật chứng của vụ án: Đối với 0,49 gam Methamphetamine còn lại sau giám định cùng vỏ bao vật chứng đã niêm phong đúng quy định của pháp luật, là hàng phạm pháp, Nhà nước cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu huỷ.

[9] Liên quan trong vụ án này: Có người nam giới đã bán ma túy cho bị cáo, nhưng bị cáo Phạm Đức H không quen biết người này. Ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác, do đó Cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra mở rộng vụ án.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

- Tuyên bố: Bị cáo Phạm Đức H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

- Xử phạt bị cáo Phạm Đức H: 25 (hai mươi lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam, giữ: 02/08/2018.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Phạm Đức H.

2. Vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: Một chiếc phong bì viền xanh đỏ đã niêm phong, mặt trước phong bì ghi "Vật chứng lưu kho vụ Phạm Đức H. Sinh năm 1995. Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bắt ngày 02/08/2018. Gồm: 03 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 02 mảnh giấy màu bạc; 01 mảnh băng dính màu đen; 01 mảnh nil on màu xanh; mẫu lưu kho ký hiệu H4= 0,49 gam” mặt sau phong bì trên giấy dán niêm phong có 01 dấu tròn đỏ của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La và 06 chữ ký, 06 dòng họ tên của thành phần tham gia niêm phong; (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/01/2019 giữa Cơ quan Công an thành phố Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La).

3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Bị cáo Phạm Đức H phải nộp 200.000,đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Kháng cáo: Bị cáo Phạm Đức H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 15/01/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 03/2019/HSST ngày 15/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:03/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;