TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 03/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/02/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Trong ngày 22/02/2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 579/2018/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 12 năm 2018 về tranh chấp ly hôn; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2019/QĐXX-ST ngày 09 tháng 01 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2019/QĐ-HPT, ngày 25/01/2019 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1990;
Bị đơn: Anh Nguyễn Công V, sinh năm 1991;
Cùng địa chỉ: Thôn CQ, xã CM, huyện Ba Vì, t.p Hà Nội;
(Nguyên đơn có mặt; Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T kết hôn hợp pháp với anh Nguyễn Công V trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Chu Minh, huyện Ba Vì; Được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 29/7/2015. Sau kết hôn chị T đã nhập hộ khẩu nhà anh V và chung sống cùng nhau tại nhà bố mẹ đẻ anh V tại thôn Chu Quyến, xã Chu Minh. Trong thời gian chung sống vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân chị T xác định do tính tình không hợp dẫn đến cãi nhau, anh V hay lạm dụng việc uống rượu về nhà quát mắng, đánh đập chị. Mâu thuẫn đến mức trầm trọng, chị T đã mang con bỏ đi nơi khác làm ăn, vợ chồng sống ly thân, chấm dứt mọi quan hệ tình cảm từ tháng 2/2018 đến nay. Chị Nguyễn Thị T xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh V và được nuôi 01 con chung là cháu Nguyễn Công Quốc B, sinh ngày 12/02/2016 đến khi đủ 18 tuổi, không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, thông báo thú lý vụ án; Giấy triệu tập; Thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh Nguyễn Công V đều không có mặt tham gia tố tụng, không trình bày quan điểm giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Xác minh quan hệ hôn nhân và sự vắng mặt của anh V, bố đẻ anh là ông Nguyễn Công M xác định việc chị T đã tự bỏ nhà đi từ ngày 21/2/2018, khi đi mang theo con nhỏ đi cùng, từ đó đến nay không về nhà chung sống cùng anh V. Tòa án triệu tập ông đã thông báo để anh V được biết nhưng anh V không về tham gia tố tụng tại Tòa án vì anh còn bận đi làm theo tầu trên sông. Thông qua ông M, anh V có nguyện vọng anh không muốn ly hôn nhưng nếu chị T kiên quyết thì anh cũng không thể níu giữ, trường hợpTòa án giải quyết ly hôn anh có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung là cháu Nguyễn Công Quốc B, sinh ngày 12/02/2016 đến khi đủ 18 tuổi, không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.
* Về con chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Công V có 01 con chung là Nguyễn Công Quốc B, sinh ngày 12/02/2016 hiện đang sống cùng chị T.
* Về tài sản chung, công sức: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết .
* Về tài sản riêng, công nợ, đất ở: Nguyên đơn trình bày không có.
* Về án phí: Chị Nguyễn Thị T tự nguyện chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
* Phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa:
+ Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử và Thư ký đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Viện kiểm sát không có ý kiến gì.
+ Về nội dung vụ án: Đề nghị HĐXX: Chấp nhận đơn xin yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị T đối với anh Nguyễn Công V . Áp dụng điều 56 , 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị T đối với anh Nguyễn Công V về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con.
- Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Nguyễn Công V .
- Về con chung: Có 01 con chung là Nguyễn Công Quốc B, sinh ngày 12/02/2016. Giao chị T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cháu B đến khi đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu B cho anh Nguyễn Công V cho đến khi có yêu cầu hoặc thay đổi khác.
Anh V có quyền đi lại thăm nom con chung theo quy định của pháp luật.
- Về tài sản chung, công sức đóng góp, tài sản riêng, công nợ: Không xem xét giải quyết trong vụ án này.
* Về án phí: Chị T phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị T khởi kiện xin ly hôn anh Nguyễn Công V - Nơi ĐKHKTT và trú tại: Thôn CQ, xã CM, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. Do vậy việc Tòa án nhân dân huyện Ba Vì thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Xét về quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Công V là hôn nhân hợp pháp. Trong thời gian chung sống vợ chồng xảy ra mâu thuẫn không hàn gắn được, chị T đã bỏ đi làm ăn nơi khác, vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 2/2018 đến nay. Anh V không trực tiếp tham gia tố tụng, thông qua người thân trong gia đình thể hiện nguyện vọng không muốn ly hôn với chị T . Nhưng anh V không chấp hành các thời gian Tòa án triệu tập, không có mặt tại phiên hòa giải chứng tỏ anh V không có ý thức chấp hành pháp luật, đồng thời không coi trọng việc hàn gắn mâu thuẫn vợ chồng. Xét mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T và anh V đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do vậy cần áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Nguyễn Công V theo nguyện vọng.
[3] Về con chung: Chị T, anh V có 01 con chung là Nguyễn Công Quốc B, sinh ngày 12/02/2016 hiện đang sống cùng chị T. Qua chứng cứ chị T cung cấp thì hiện nay chị T và cháu Bảo có nơi ở, đời sống ổn định, giao chị T trực tiếp nuôi dưỡng cháu Bảo đến khi đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác.
Về việc cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị T không yêu cầu anh Nguyễn Công V cấp dưỡng nuôi con chung nên tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh V cho đến khi có yêu cầu hoặc thay đổi khác.
[4] Về tài sản chung, công sức đóng góp, tài sản riêng, công nợ: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị T trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết .
Đối với bị đơn anh Nguyễn Công V chưa có lời trình bày . Nên HĐXX xác định chưa giải quyết trong vụ án này . Giành quyền khởi kiện cho anh V bằng vụ kiện dân sự khác khi có đủ điều kiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự .
[5] Về án phí: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị T phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 56, Điều 69, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Điều 227 BLTTDS năm 2015; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH ngày 26/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
Xử:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị T đối với anh Nguyễn Công V về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con.
- Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Nguyễn Công V .
- Về con chung: Có 01 con chung là Nguyễn Công Quốc B, sinh ngày 12/02/2016. Giao chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cháu B đến khi đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu B cho anh Nguyễn Công V cho đến khi có yêu cầu hoặc thay đổi khác.
“ Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thị hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự“.
Bản án 03/2019/HNGĐ-ST ngày 22/02/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 03/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ba Vì - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 22/02/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về