Bản án 03/2018/HS-ST ngày 18/01/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÌN HỒ, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 03/2018/HS-ST NGÀY 18/01/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 18 tháng 01 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 58/2017/TLST-HS ngày 22 tháng 11 năm 2017, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2018/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo:

Lò Văn P; 30 tuổi; nơi sinh: huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu; Nơi cư trú: Bản PD, xã CN, huyện SH, tỉnh LC; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: T; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn D và bà Lò Thị Th; vợ, con: không; tiền án: không; tiền sự: không; nhân thân: Ngày 29 tháng 7 năm 2013 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu tuyên bố phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, bị xử phạt 02 năm tù. Tính đến thời điểm thực hiện hành vi phạm tội lần này thì bị cáo đã được xóa án tích. Từ năm 2011 đến năm 2012 bị cáo bị áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc; bị bắt, tạm giữ ngày 23 tháng 8 năm 2017, tạm giam ngày 26 tháng 8 năm 2017 đến 03 tháng 01 năm 2018 được tại ngoại; có mặt.

Người tham gia tố tụng khác: Người làm chứng: Lò Văn H; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 23 tháng 8 năm 2017, Lò Văn P một mình đi bộ từ nhà P đến trung tâm xã Chăn Nưa, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu để bắt xe khách đi lên thị trấn Sìn Hồ, huyện Sìn Hồ để tìm việc làm và tìm mua Hêrôin (Heroin) để sử dụng. Trên đường đi P gặp Lò Văn H (sinh năm: 1984; trú tại: bản Chiềng Chăn 1, xã Chăn Nưa, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu). H hỏi P đi đâu, P nói đi lên thị trấn Sìn Hồ để tìm việc làm và tìm mua Hêrôin để sử dụng. H nói: nếu P đưa cho H 50.000 đồng để mua xăng thì H sẽ dùng xe máy trở P lên thị trấn Sìn Hồ, P đồng ý và đưa cho H 50.000 đồng. Sau khi H đổ xăng vào xe máy xong, H điều khiển xe máy chở P đi, khoảng 10 giờ cùng ngày, P và H đến thị trấn Sìn Hồ và vào ăn tại quán trước cổng Bệnh viện đa khoa huyện Sìn Hồ. Khoảng 11 giờ, P rủ Hoạt đi vào bản Hoàng Hồ, xã Phăng Sô Lin để tìm mua Hêrôin, H đồng ý. H điều khiển xe máy chở P đi đến đầu cầu treo đầu bản Hoàng Hồ thì P bảo H đứng đợi ở đó, còn P một mình đi bộ vào trong bản Hoàng Hồ. Khi vào trong bản Hoàng Hồ, P hỏi và mua được 01 gói Hêrôin ngoài gói bằng nilon màu đen của một người phụ nữ dân tộc Dao, khoảng 50 tuổi với giá 50.000 đồng. P lấy một ít Hêrôin ra sử dụng bằng hình thức hít tại nhà người phụ nữ đó, số Hêrôin còn lại P gói lại bằng mảnh nilon màu trắng rồi cất vào trong túi quần bên phải đang mặc trên người rồi quay lại chỗ H đang đứng chờ. Khi gặp H, P giơ gói Hêrôin vừa mua được cho H xem và nói về giữa đường sẽ sử dụng. Sau đó P cầm gói Hêrôin trên tay phải, Hoạt điều khiển xe chở P quay về. Đến 12 giờ 40 phút cùng ngày, khi H chở P về đến Km 03 tỉnh lộ 128, thuộc khu 1, thị trấn Sìn Hồ thì bị tổ công tác Công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu yêu cầu dừng xe để kiểm tra, Pánh liền thả gói Hêrôin từ trên tay phải xuống đất, còn H tăng ga xe máy bỏ chạy. P tự nhặt gói Hêrôin lên giao nộp cho tổ công tác Công an huyện Sìn Hồ và bị bắt.

Tại biên bản mở niêm phong, xác định trọng lượng và trích mẫu giám định của Công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu vào hồi 16 giờ 10 phút ngày 23 tháng 8 năm 2017 xác định: số chất bột, vón cục, màu trắng thu giữ của Lò Văn P (sau khi loại bỏ bao bì) có trọng lượng là 0,15 gam; lấy toàn bộ 0,15 gam chất bột, vón cục, màu trắng này làm mẫu vật gửi đi giám định.

Tại bản kết luận giám định số: 388/GĐ-KTHS, ngày 09 tháng 9 năm 2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: mẫu vật thu giữ của Lò Văn P có trọng lượng là 0,15 gam, là Heroine.

Tại bản Cáo trạng số: 62/KSĐT-MT ngày 21 tháng 11 năm 2017 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu để xét xử bị can Lò Văn P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự, tương ứng với điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như Viện kiểm sát nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đã truy tố; không oan, không sai.

Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố, bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù; xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự; đối với 0,15 gam Hêrôin thu giữ của bị cáo đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu gửi đi giám định. Sau khi giám định, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu không hoàn lại mẫu vật, nên không đề cập xử lý.

Người làm chứng Chẻo Mý C khai chưa từng gặp bị cáo Lò Văn P, chưa bán Hêrôin cho P lần nào. Cho rằng bị cáo P khai đã mua Hêrôin của C là do P nhầm lẫn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình theo quy định tại Điều 37 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Kiểm sát viên đã  thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình theo quy định tại Điều 42 của Bộ luật Tố tụng hình sự; các tài liệu, chứng cứ được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định. Nên các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp.

[2] Đánh giá chứng cứ, yêu cầu, đề nghị của Kiểm sát viên, bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Lời khai nhận tội của bị cáo là hoàn toàn phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu lập hồi 13 giờ 10 phút ngày 23 tháng 8 năm 2017 về việc: vào hồi 12 giờ 40 phút ngày 23 tháng 8 năm 2017, tại Km 03, tỉnh lộ 128, đoạn đi qua khu 1, thị trấn Sìn Hồ, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu, bị cáo Lò Văn P đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,15 gam Hêrôin với mục đích để mang về sử dụng, vì bị cáo là người nghiện chất ma túy. Nên bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Do vậy, những chứng cứ buộc tội, yêu cầu, đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ pháp lý và phù hợp với hành vi bị cáo đã thực hiện, phù hợp với nhân thân của bị cáo, nên được chấp nhận.

Hành vi phạm tội bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm phạm chính sách quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tội phạm về ma túy gia tăng, gián tiếp làm gia tăng các loại tội phạm khác, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu; là một trong những nguyên nhân hủy hoại hạnh phúc của nhiều gia đình, hủy hoại sức khỏe, suy kiệt về kinh tế của người sử dụng và gia đình, tạo nhiều gánh nặng cho xã hội. Từ năm 2011 đến năm 2012 bị cáo bị áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc; ngày 29 tháng 7 năm 2013 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu tuyên bố phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, bị xử phạt 02 năm tù. Tính đến thời điểm thực hiện hành vi phạm tội lần này thì bị cáo đã được xóa án tích; thấy rằng, bị cáo đã được giáo dục, cải tạo nặng nhất là bằng hình phạt 2 năm tù, bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, vì không chịu rèn luyện, giữ gìn đạo đức tốt bị cáo đã tái nghiện chất ma túy, nên đã cố ý thực hiện hành vi mua, tàng trữ trái phép chất ma túy để bản thân sử dụng. Nên cần áp dụng một hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, để giáo dục, cải tạo bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội, đồng thời giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật; đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

 

Theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số: 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành của Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, Luật Tổ chức Cơ quan Điều tra hình sự số 99/2015/QH13, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13 (Nghị quyết số 41/2017/QH14 của Quốc hội) thì: Kể từ ngày Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số  100/2015/QH13 được công bố, tiếp tục thực hiện các quy định tại khoản 3 Điều 7 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm b khoản 1 Điều 2 của Nghị quyết số 41/2017/QH14. Nên các điều khoản của Bộ luật Hình sự năm 2015 xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng; quy định hình phạt nhẹ hơn, tình tiết giảm nhẹ mới; miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội thì được áp dụng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999, bị cáo bị xử phạt tù từ 02 đến 07 năm; Theo quy định khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 thì hình phạt đối với bị cáo là từ 1 đến 5 năm là nhẹ hơn so với quy định của Bộ luật hình sự năm 1999, nên Hội đồng xét xử áp dụng quy định này.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, hiểu biết pháp luật của bị cáo có phần hạn chế. Do vậy, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện sự khoan hồng trong pháp luật của Nhà nước.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999, khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, bị cáo có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, không có khả năng thi hành hình phạt tiền, hình phạt tịch thu tài sản. Bị cáo không lao động trong các ngành, nghề hoặc công việc cần phải cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc cấm hành nghề. Nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Vật chứng trong vụ án là 0,15 gam Hêrôin thu giữ của bị cáo đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu gửi đi giám định. Sau khi giám định, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu không hoàn lại mẫu vật, nên không đề cập xử lý.

[7] Về án phí: Theo quy định tại Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Về quyền kháng cáo: Theo quy định tại các Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

[9] Về nguồn gốc Hêrôin thu giữ của bị cáo và trách nhiệm của người có liên quan: Theo lời khai của bị cáo thì bị cáo đã nói với Lò Văn H về mục đích bị cáo đi đến thị trấn Sìn Hồ là để tìm việc và tìm mua Hêrôin về sử dụng. Sau đó Hoạt đã dùng xe máy của H chở P lên thị trấn Sìn Hồ và vào bản Hoàng Hồ, xã Phăng Sô Lin, Huyện Sìn Hồ để mua Hêrôin. Hoạt biết P đã mua được Hêrôin và chở P về đến Km 03 tỉnh lộ 128 thuộc khu 1, thị trấn Sìn Hồ, huyện Sìn Hồ thì bị phát hiện, bắt quả tang. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra H không thừa nhận đã dùng xe máy chở P đi mua Hêrôin mà chỉ chở thuê (xe ôm) cho P đến thị trấn Sìn Hồ để tìm việc làm và lấy tiền công là 50.000 đồng. Chỉ dựa vào lời khai của P và không có tài liệu, chứng cứ khác chứng minh, nên không có căn cứ xử lý đối với Lò Văn H về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy với vai trò đồng phạm với Lò Văn P.

Về nguồn gốc số Hêrôin thu giữ của Lò Văn P: P khai nhận đã mua của một người phụ nữ dân tộc Dao, khoảng 50 tuổi, P không biết tên, nhà ở bản Hoàng Hồ, xã Phăng Sô Lin, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Quá trình điều tra xác minh, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sìn Hồ xác định được người phụ nữ đó là Chẻo Mý C (sinh năm: 1963; trú tại: bản Hoàng Hồ, xã Phăng Sô Lin, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu). Đến tại phiên tòa, Chẻo Mý C không thừa nhận đã bán Hêrôin cho P, dựa vào lời khai duy nhất của Lò Văn P thì không đủ căn cứ để xử lý đối với Chẻo Mý C về hành vi mua bán trái phép chất ma túy trong vụ án này.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 7, Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 1999, Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội

Tuyên bố: bị cáo Lò Văn P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

Xử phạt bị cáo 02 (hai) năm tù, được trừ 04 tháng 10 ngày bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam, bị cáo còn phải chấp hành 01 năm 07 tháng 20 ngày tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bắt đầu chấp hành hình phạt tù.

Án phí sơ thẩm: Áp dụng các Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 18 tháng 01 năm 2018).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 03/2018/HS-ST ngày 18/01/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:03/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sìn Hồ - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;