Bản án 03/2018/HS-ST ngày 08/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HOÀNG MAI, TỈNH NGHỆ AN     

BẢN ÁN 03/2018/HS-ST NGÀY 08/03/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 3 năm 2018,tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 07/2018/TLST-HS ngày 02 tháng 02 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2018/QĐXXST- HS ngày 23 tháng 02 năm 2018 đối với:

*Các bị cáo :

1. Nguyễn Thị Kh, Tên gọi khác: H, Sinh ngày 25/05/1960

Nơi sinh: xã Q, huyện TT, thành phố Hà Nội.

Nơi cư trú: Thôn X,xã Q, huyện TT, thành phố Hà Nội.

Nơi ĐKNKTT: Số x, NT, phường  NT, Quận BĐ, thành phố Hà Nội.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không Nghề nghiệp: Lao động tự do;  Trình độ văn hóa: 1/10, Con ông: Nguyễn P; Con bà: Trần Thị K, đã chết 

Anh chị em ruột: có 4 người, bị cáo là con đầu. Chồng: Lê M, sinh năm 1959

Có 04 con, lớn nhất sinh năm 1978, nhỏ nhất sinh 1985. Tiền sự: không.

Tiền án: Ngày 03/6/2016 bị TAND thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 6 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 12 tháng về “tội trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị tạm giữ,tạm giam từ ngày 27/11/2017, hiện đang tạm giam. Có mặt.

2. Bùi Thị H, sinh ngày 24/12/1957;

Nơi sinh: thành phố TB, tỉnh Thái Bình.

Nơi cư trú: Tổ X, phường X, thành phố TB, tỉnh Thái Bình

Nơi ĐKNKTT: Tổ X, phường X, thành phố TB, tỉnh Thái Bình Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 2/10 Con ông: Bùi VT, đã chết; Con bà: Vũ Thị H, đã chết Anh chị em ruột: có 8 người, bị cáo là con thứ 3. Chồng: Tr Đ M, đã chết Có 04 con, lớn nhất sinh năm 1980, nhỏ nhất sinh 1990.

Tiền án, tiền sự: không;

*Nhân thân:

- Ngày 23/7/2003, Bị Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 12 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”.

- Ngày 09/3/2006 Bị Tòa án nhân dân huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị tạm giữ,tạm giam từ ngày 27/11/2017 hiện đang tạm giam. Có mặt.

*Bị hại: Chị Phạm Thị Ho, sinh năm 1981,Trú tại: Khu X, xã TT, huyện TT, tỉnh Thanh Hóa . Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 16 giờ ngày 26/11/2017, Tại đền Cờn thuộc phường Quỳnh Phương, thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An. Khi chị Phạm Thị Ho( sinh năm 1981, trú tại khu X, xã TT, huyện TT, tỉnh Thanh Hóa) đang bưng đồ dâng lễ thì bị Nguyễn Thị Kh chiếm đoạt 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG GALAXY S8 PLUS có ốp da. Sau khi lấy được điện thoại, Kh đưa cho Bùi Thị H. Bùi Thị H biết chiếc điện thoại đó là do Kh vừa trộm được, nhưng H vẫn nhận và lấy báo gói lại để cất giấu.

Trong khi H đang cất giấu thì bị chị Hồ Thị Hằng (sinh năm 1979, trú tại khối Quang Trung, phường Quỳnh Phương, thị xã Hoàng Mai) là nhân viên của Đền phát hiện. Bị phát hiện bất ngờ, H đưa điện thoại ngay cho Kh. Thấy vậy,chị Hằng giữ Kh, H và điện thoại lại,báo Công an phường Quỳnh Phương xử lý.

Hội đồng định giá tài sản UBND thị xã Hoàng Mai xác định tại thời điểm chiếm đoạt: giá trị Điện thoại SAMSUNG GALAXY S8 PLUS là 18.000.000đ theo kết luận số 27 ngày 04/12/2017; giá trị chiếc ốp da là 30.000đ theo kết luận số 01 ngày 16/ 01/ 2018. Tổng giá trị là: 18.030.000đ.

Sau khi định giá, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Hoàng Mai đã trả lại cho chị Phạm Thị Ho các tài sản trên. Chị Ho không có yêu cầu gì thêm.

Ngoài ra, Cơ quan Cảnh sát điều tra còn thu giữ của Bùi Thị H: 01 chiếc điện thoại NOKIA 107;01 chứng minh nhân dân mang tên mang tên Bùi Thị H, 01 chiếc mũ màu xanh, 01 chiếc khẩu trang và 2.700.000đ. Và thu giữ của Nguyễn Thị Kh 01 chiếc thoại nhãn hiệu NOKIA 1280 và 4.000.000đ. Do không liên quan vụ án, nên Cơ quan CSĐT đã trả lại cho chị Nguyễn Thị Ánh Hồng là con gái của Bùi Thị H, chị Lê Thị Đức là con gái của Nguyễn Thị Kh số tài sản và giấy tờ trên.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoàng Mai, số 10/CT-VKS, ngày 02 tháng 02 năm 2018, Truy tố ra trước Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai,Nghệ An để xét xử: Nguyễn Thị Kh về tội: Trộm cắp tài sản, theo khoản 1 điều 138 BLHS; Bùi Thị H về tội: Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có, theo khoản 1 điều 250 BLHS.

Tại phiên tòa:

Đại diện VKS giữ nguyên toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu. Đề nghị: Áp dụng khoản 1 điều 138; điểm p khoản 1, khoản 2 điều 46; điểm g khoản 1 điều 48 BLHS. Xử phạt Nguyễn Thị Kh từ 12 tháng đến 15 tháng tù. Áp dụng khoản 1 điều 250; điểm p khoản 1, khoản 2 điều 46 BLHS. Xử phạt Bùi Thị H từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

Các bị cáo hoàn toàn khai nhận hành vi phạm tội của mình và thiệt hại xảy ra. Bị cáo Kh còn trình bày: Hàng năm vẫn đi Đền Cờn bình thường. Do 3 năm nay đã ly thân chồng, phải về sống nhờ bố đẻ, nợ nần nhiều, cuộc sống khó khăn, nên làm liều. Bị cáo H còn trình bày: Hôm đó đi lễ Đền Cờn theo đoàn. Bị cáo đang soạn lễ thì bất ngờ thấy Kh đưa điện thoại nhờ cầm giùm. Biết đó là do Kh vừa trộm được,nhưng do người quen, không thể kịp nghĩ để từ chối,nên cầm để cất dấu mà chưa tính đến lợi ích gì.

Các bị cáo đề nghị được chiếu cố giảm nhẹ mức án để sớm được làm người lương thiện. Bị cáo H đề nghị được giảm nhẹ mức án để có điều kiện đi chữa bệnh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đây là vụ án hình sự xẩy ra và phát hiện trước thời điểm 00 giờ 00 phút ngày 01/01/2018, được đưa ra xét xử sau thời điểm 00 giờ 00 phút ngày 01/01/2018(Thời điểm có hiệu lực thi hành Bộ luật hình sự 2015). Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát tiến hành tố tụng vụ án theo quy định tại điều 5 Nghị quyết số 41/2017/QH14 là đúng pháp luật. Trình tự thủ tục tố tụng đảm bảo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án là hợp pháp.

[2] Về việc áp dụng bộ luật hình sự: Kết luận đề nghị của cơ quan điều tra; Kết luận truy tố của Viện kiểm sát,và Quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án dựa theo quy định tại Bộ luật hình sự 1999 là đúng pháp luật.

[3] HĐXX đã làm rõ được diễn biến vụ án như nội dung tóm tắt vụ án đã nêu trên. Qua đó cho thấy:

Lời khai của các bị cáo Nguyễn Thị Kh và Bùi Thị H tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp về thời gian, địa điểm, quá trình thực hiện hành vi phạm tội, đặc điểm của tài sản là đối tượng của tội phạm, phù hợp với nội dung tài liệu vụ án của cơ quan điều tra Công an thị xã Hoàng Mai. Nên có cơ sở kết luận: Bị cáo Nguyễn Thị Kh lợi dụng sơ hở, lén lút chiếm đoạt tài sản; Bùi Thị H có hành chứa chấp tài sản do Nguyễn Thị Kh chiếm đoạt mà có.

Giá trị tài sản Kh chiếm đoạt của chị Phạm Thị Ho được định giá là:18.030.000đ (Mười tám triệu không trăm ba mươi ngàn đồng).

Hành vi của H không hứa hẹn trước với Kh,nhưng H biết được điện thoại đó là do Kh trộm cắp, mà vẫn nhận cất giấu, mục đích để được hưởng thụ vật chất có nguồn gốc từ hành vi trộm cắp của Kh mà có.

Với những chứng cứ về hành vi của Kh và  H, và giá trị thiệt hại tài sản đã phân tích nêu trên, có căn cứ khẳng định: Nguyễn Thị Kh phạm tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tải khoản 1 điều 138 BLHS; Bùi Thị H phạm tội“Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có" theo khoản 1 Điều 250 BLHS, như­ VKSND thị xã Hoàng Mai đã truy tố.

[4] Hành vi phạm tội của Nguyễn Thị Kh và Bùi Thị H  là liều lĩnh, coi thường pháp luật, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác đang được pháp luật hình sự bảo vệ; Xâm phạm đến trật tự công cộng và trật tự pháp luật XHCN. Hành vi đó thể hiện tính chất vụ án là nghiêm trọng, gây nguy hại lớn cho xã hội, làm mất trật tự trị an và gây tâm lý Hoang mang lo lắng cho nhân dân địa phương. Nên cần phải xử lý nghiêm đối với các bị cáo,để răn đe giáo dục người phạm tội phạm nói riêng cũng như phòng ngừa tội phạm nói chung.

Xét về tính chất, nguyên nhân điều kiện phạm tội: Do tính tham lam muốn hưởng thụ tài sản mà không đổ công sức, nên khi có cơ hội Nguyễn Thị Kh và Bùi Thị H thực hiện ngay hành vi phạm tội. Thiệt hại của chị Phạm Thị Ho trong vụ án là do Nguyễn Thị Kh trực tiếp gây ra, và có sự tiếp tay của Bùi Thị H làm cho tính chất vụ án nghiêm trọng hơn. Nên các bị cáo phải chịu mức độ xử lý theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Nguyễn Thị Kh có có tình tiết tăng nặng hình sự là: Ngày 03/6/2016 bị Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 6 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 12 tháng về “tội trộm cắp tài sản”, Bị cáo phạm tội sau khi đã chấp hành xong thời gian thời gian thử thách án treo,nên chỉ bị coi là: Tái phạm,được quy định tại điểm g khoản 1 điều 48 BLHS 1999. Tuy đã chấp hành xong thời gian thời gian thử thách án treo,nhưng căn cứ khả năng tự cải tạo thì bị cáo không được hưởng án treo một lần nữa.

Bị cáo Bùi Thị H,theo kết quả điều tra thì bản án từ năm 2003; 2006 đã đương nhiên xóa án tích. Nên được coi như chưa bị kết án,theo quy định tại điều 63;64 BLHS 1999.

Các bị cáo đều có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là: Người phạm tội thành khẩn khai báo;Ăn năn hối cải; Phạm tội gây thiệt hại không lớn;Tự nguyện đầu thú. Ngoài ra còn chiếu cố cho các bị cáo để thể hiện sự khoan hồng của nhà nước ta đối với người phạm tội, là: Các bị cáo là phụ nữ, tuổi tương đối cao, nên thực hiện chính sách nhân đạo của pháp luật để chiếu cố cho bị cáo; Hành vi phạm tội bột phát, tính chất đơn giản; Mục đích vụ lợi chưa ai đạt được;Tài sản của chị Ho được thu hồi ngay, cũng làm hạn chế đáng kể tính nguy hiểm do hành vi hai bị cáo gây nên.

Ngoài ra, theo công văn số 291/TTG-TM, ngày 28/02/2018 của Trại tạm giam-Công an Nghệ An,về việc đề nghị thay đổi biện pháp ngăn chặn, do bị cáo H bị đau cốt sống, không đi lại được,sinh hoạt cá nhân phải có người trợ giúp. Xem xét dấu hiệu tuổi tác, sức khỏe và thời gian đã tạm giam bị cáo, thì cần chiếu cố để bị cáo có cơ hội đi chữa bệnh tại cơ sở y tế phù hợp.

[5] Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Hoàng Mai đã trả vật chứng là tài sản cho người bị hại; và trả tài sản, giấy tờ bị tạm giữ cho gia đình các bị cáo. Việc giao trả trên là đúng trình tự pháp luật. Người bị hại là chị Ho,tại hồ sơ thể hiện không có yêu cầu gì thêm, nên miễn xét.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 138; điểm g, p khoản 1,khoản 2 Điều 46;điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS.

Xử phạt Nguyễn Thị Kh 06(Sáu) tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 27/11/2017.

2. Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 250; điểm g, p khoản 1,khoản 2 Điều 46; Điều 47 BLHS. Khoản 5 Điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Xử phạt Bùi Thị H 03 tháng 10 ngày(Ba tháng, mười ngày) tù về tội: Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có.

Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 27/11/2017. Thời hạn tù bằng thời gian đã tạm giữ tạm giam.

*Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Thị Kh và Bùi Thị H, mỗi người phải chịu 200.000đồng án phí HSST.

* Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án: Các bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

295
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 03/2018/HS-ST ngày 08/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:03/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hoàng Mai - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;