Bản án 03/2018/HNGĐ-ST ngày 31/01/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH LƯU, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 03/2018/HNGĐ-ST NGÀY 31/01/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 31 tháng 01 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 316/2017/TLST- HNGĐ ngày 23 tháng 11 năm 2017 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2018/QĐXX - ST ngày 12 tháng 01 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Hoàng Duy Q, sinh năm 1989

Địa chỉ: Xóm 1, xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Có mặt

2. Bị đơn: Chị Trần Thị H, sinh năm 1992

Địa chỉ: Xóm 1, xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An.Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 20 tháng 11 năm 2017 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn anh Hoàng Duy Q trình bày:

Anh và chị Trần Thị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn ngày 19/01/2011 tại UBND xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Từ năm 2012 đến nay luôn xẩy ra mâu thuẫn nguyên nhân do chị H luôn tự ý bồng con về bên ngoại, tự ý bỏ đi chơi qua đêm ít ngày mới về không nói với anh và gia đình, anh góp ý không được và tỏ thái độ thách thức làm cuộc sống gia đình luôn mâu thuẫn căng thẳng. Từ ngày 20/12/2017 đến nay chị H đưa hai con về bên ngoại ở với cậu em, hai gia đình đã xẩy ra mâu thuẫn căng thẳng nhất là các cậu em chị H. Nay tình cảm vợ chồng không còn anh xin được ly hôn chị H. Về con, vợ chồng có hai con chung là Hoàng Thị Như Q, sinh ngày 18/4/2012 và Hoàng Trung H, sinh ngày 15/9/2014. Ly hôn, anh xin được nuôi cả hai con, không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con. Tại phiên tòa anh Q xin được nuôi con Hoàng Trung H vì là con trai ở với anh sẽ tốt hơn trong nuôi dưỡng, học hành, còn con Hoàng Thị Như Q anh để chị H nuôi dưỡng.Về tài sản, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 24 tháng 11 năm 2017 chị H tự viết: Chị và anh Q có đăng ký kết hôn ngày 19/01/2011 tại UBND xã T, trên cơ sở tự nguyện. Cuộc sống chung với ông bà nội, chồng không quan tâm đến vợ con, không cho vợ giữ tiền, chồng làm chuyện gì cũng không bàn bạc với vợ, lý do đánh vợ.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 24/11/2017 (do chị H đề nghị) chị Trần Thị Htrình bày: Quá trình chung sống vợ chồng luôn xảy ra mâu thuẫn do quan điểm sống của chị và anh Q khác nhau,tính cách không hợp nên vợ chồng cãi nhau, anh luôn tự ý làm mọi việc không bàn gì với chị, chị cũng thấy mệt mỏi, bế tắc. Nay anh Q xin ly hôn chị đồng ý không còn tình cảm nữa. Vợ chồng có 02 con chung Hoàng Thị Như Q, sinh ngày 18/4/2012 và Hoàng Trung H, sinh ngày 15/9/2014, con đang ở với vợ chồng. Ly hôn chị xin được nuôi con Hoàng Trung H vì còn nhỏ cần sự quan tâm của mẹ hơn, còn để Hoàng Thị Như Q cho anh Q nuôi, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau. Về tài sản, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên sau khi đọc biên bản chị H không ký vào biên bản mà bỏ về.

Tại biên bản xác minh bà Hồ Thị H phó Chủ tịch hội phụ nữ UBND xã T, huyện Q cho biết: Anh Q và chị H đăng ký kết hôn ngày 19/01/2011 tại UBND xã T, hôn nhân tự nguyện; anh Q và chị H mâu thuẫn trầm trọng từ lâu do chị H thiếu trách nhiệm không quan tâm tới gia đình. Nay anh Q yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì đề nghị Tòa án xử cho họ được ly hôn. Anh Q, chị H có hai con chung Hoàng Thị Như Q, sinh ngày 18/4/2012 và Hoàng Trung H, sinh ngày 15/9/2014. Nếu họ thỏa thuận được quyền nuôi con thì Tòa án chấp nhận, còn không đề nghị Tòa án giao hai cháu cho anh Q nuôi dưỡng vì anh Q có đủ điều kiện để nuôi con hơn nữa hiện nay hai cháu đang học tại trường mần non xã T. Chị H có thái độ không hợp tác nên đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Lưu phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử tuân theo pháp luật tố tụng. Nguyên đơn chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án, bị đơn không chấp hành pháp luật gây khó khăn cho Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án. Đề nghị áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình năm 2014; Điều 147; khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử cho anh Hoàng Duy Q được ly hôn chị Trần Thị H.

Về con: Giao cháu Hoàng Trung H, sinh ngày 15/9/2014 cho anh Hoàng Duy Q trực tiếp nuôi dưỡng. Giao cháu Hoàng Thị Như Q, sinh ngày 18/4/2012 cho chị Trần Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho hai bên vì không ai yêu cầu.

Về tài sản: Không ai yêu cầu giải quyết nên không xét. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Nguyên đơn phải nộp án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

- Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt các văn bản thông báo thụ lý, thông báo phiên họp kiểm tra, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhiều lần hợp lệ cho chị Trần Thị H nhưng chị cố tình vắng mặt. Tòa án đã tống đạt hợp lệ các Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa, Quyết định đưa vụ án ra xét xử lần hai nhưng chị Trần Thị H vẫn vắng mặt. Căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt bị đơn.

- Về nội dung:

[1]. Hôn nhân giữa anh Hoàng Duy Q và chị Trần Thị H là hợp pháp vì tuân thủ các điều kiện kết hôn do luật định. Quá trình chung sống do tình cách, quan điểm sống khác nhau nên xẩy ra mâu thuẫn, không ai quan tâm đến nhau nữa. Quá trình giải quyết Tòa án báo gọi các bên đến để họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tạo điều kiện cho các bên có cơ hội đoàn tụ nhưng chị H thiếu hợp tác, thường xuyên vắng mặt. Anh Q có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải nên vụ án không hòa giải được. Qua lời trình bày của vợ chồng và kết quả xác minh tại địa phương cho thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng không thể tiếp tục sống chung cùng nhau được nên xử cho anh Q được ly hôn chị H.

[2]. Về nuôi con chung: Anh Hoàng Duy Q và chị Trần Thị H có 02 con chung là Hoàng Thị Như Q và Hoàng Trung H, hiện đang ở với chị H. Ly hôn, anh Q xin được nuôi cả hai con.Tại biên bản lấy lời khai ngày 24/11/2017 chị H xin được nuôi cháu H còn cháu Q giao anh Q nuôi, không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau. Tại phiên tòa anh Q xin được nuôi cháu H vì là con trai ở với anh sẽ tốt hơn trong nuôi dưỡng, học hành. Anh đề nghị để cháu Q cho chị H nuôi dưỡng.

Xét thấy, nuôi con là quyền và nghĩa vụ của cha mẹ nên anh Q và chị H khi ly hôn đều xin được trực tiếp nuôi con là chính đáng. Để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con và trách nhiệm của cha mẹ nên cần thiết giao cho mỗi người nuôi một con. Cháu Hoàng Thị Như Q cần giao cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng vì cháu là con gáicần sự quan tâm, hướng dẫn chỉ bảo của người mẹ để phát triển tốt hơn về tâm sinh lý. Cháu Hoàng Trung H giao cho anh Q trực tiếp nuôi dưỡng để đảm bảo điều kiện phát triển tốt cho cháu trong học hành và cuộc sống về sau.Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho hai bên vì không ai yêu cầu. Anh Q, chị H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con không ai được cản trở.

[3]. Về tài sản: Không ai yêu cầu giải quyết về tài sản nên Tòa án không giải quyết trong vụ án này.

[4]. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51,56, 81,82,83 Luật Hôn nhân gia đình; các Điều 227,228,147 Bộ luật tố tụng dân sự. Nghị quyết 326/2016/NQ - UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Hoàng Duy Q và chị Trần Thị H.

2. Về nuôi con chung: Giao con chung Hoàng Trung H, sinh ngày 15/9/2014 cho anh Hoàng Duy Q trực tiếp nuôi dưỡng. Giao Hoàng Thị Như Q, sinh ngày 18/4/2012 cho chị Trần Thị H trực tiếp nuôi dưỡng.Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Q và chị H vì không ai yêu cầu. Anh Q và chị H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về chia tài sản: Không ai yêu cầu giải quyết về tài sản nên Tòa án không giải quyết trong vụ án này.

4. Về án phí: Anh Hoàng Duy Q phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí anh đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Quỳnh Lưu theo biên lai số 0007372 ngày 23/11/2017.

5. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

405
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 03/2018/HNGĐ-ST ngày 31/01/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:03/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Lưu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;