Bản án 03/2018/DS-ST ngày 21/12/2018 về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 03/2018/DS-ST NGÀY 21/12/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VAY TÀI SẢN

Trong ngày 09 tháng 11 và ngày 21 tháng 12 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 94/2018/TLST-DS ngày 03 tháng 7 năm 2018 về “Tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2018/QĐXXST-DS ngày 21 tháng 9 năm 2018; Quyết định hoãn phiên tòa số: 19/2018/QĐST - DS ngày 18 tháng 10 năm 2018; Quyết định tạm ngừng phiên tòa số: 23/2018/QĐST-DS ngày 09 tháng 11 năm 2018; Quyết định hoãn phiên tòa số: 01/2018/QĐST - DS ngày 07 tháng 12 năm 2018 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Cao Thị Thu H - Sinh năm: 1978; Địa chỉ: Số nhà 785, tổ dân phố 07, phường T, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên (Có mặt).

* Bị đơn: Ông Vũ Đình H (Tên gọi khác: Vũ Song H); Địa chỉ: Tổ dân phố 05, phường H, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên (Vắng mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Vũ Thị T; Địa chỉ: Tổ dân phố 05, phường H, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 02/7/2018, bản tự khai đề ngày 20/8/2018 và tại phiên tòa nguyên đơn bà Cao Thị Thu H trình bày:

Do có sự quen biết từ trước nên ngày 11/9/2017 bà H có cho ông Vũ Đình H (Vũ Song H) vay không có lãi số tiền là 3.200.000.000 đồng (Ba tỷ hai trăm triệu đồng) để làm công trình xây dựng, hẹn đến ngày 30/6/2018. Hai bên có thỏa thuận với nhau là sẽ trả thành nhiều lần từ ngày vay 11/9/2017 đến thời điểm trả nợ 30/9/2018. Nhưng kể từ lúc vay đến nay ông H mới trả cho bà H được 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng) vào ngày 20/10/2017. Sau nhiều lần gọi điện và tìm đến nhà không gặp được ông H. Vì vậy bà H yêu cầu ông H phải trả cho bà H số tiền còn lại là 3.000.000.000 đồng (Ba tỷ đồng) tiền gốc và không tính tiền lãi.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và quan điểm giải quyết vụ án như sau:

* Về việc tuân theo pháp luật của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, thư ký: Trong quá trình giải quyết vụ án thẩm phán, thư ký đã thực hiện đúng các quy định về pháp luật tố tụng dân sự.

- Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa Hội đồng xét đã thực đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm và đảm bảo đúng nguyên tắc xét xử.

- Về việc chấp hành pháp luật của các đương sự trong vụ án:

* Đối với nguyên đơn dân sự: Nguyên đơn là bà Cao Thị Thu H đã thực hiện đúng các quy định về quyền và nghĩa vụ của mình. Nguyên đơn được nhận các thông báo hợp lệ theo quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật TTDS.

* Đối với bị đơn dân sự: Ông Vũ Đình H vắng mặt không có lý do tại buổi hòa giải, không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Không chấp hành đúng theo quy định của pháp luật.

* Đối với Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Vũ Thị T vắng mặt không có lý do kể từ khi được Tòa án thông báo bổ sung bà tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng bà Tính không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Không chấp hành đúng theo quy định của pháp luật.

* Về quan điểm giải quyết vụ án:

- Áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 điều 39, khoản 1 Điều 147, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 463, 465, 466, 470 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Áp dụng khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà CaoThị Thu H.

Buộc ôngVũ Đình H (Vũ Song H) phải có trách nhiệm trả cho bà Cao Thị Thu H số tiền là 3.000.000.000 đồng (Ba tỷ đồng).

Về án phí: Bà Cao Thị Thu H không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.Hoàn trả lại cho bà H toàn bộ số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 46.000.000 đồng (Bốn mươi sáu triệu đồng) tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2010/0001924 ngày 02 tháng 7 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên.

Buộc ông Vũ Đình H (Vũ Song H) phải chịu 9.690.000 đồng (Chín triệu, sáu trăm chín mươi nghìn đồng) tiền chi phí giám định. Ông H phải hoàn trả lại cho bà Cao Thị Thu Hsố tiền 9.690.000 đồng chi phí giám định.

Buộc ông Vũ Đình H (Vũ Song H) phải chịu 92.000.000 đồng (chínmươi hai triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.

* Những yêu cầu, kiến nghị khắc phục vi phạm về tố tụng: Không.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được xem xét tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án Tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản giữa bà Cao Thị Thu H và ông Vũ Đình H (Vũ Song H), bà Vũ Thị T thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên được quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Trong quá trình giải quyết vụ án do ông H, bà T không có mặt tại nơi cư trú (tổ dân phố 5, phường Him Lam, thành phố Điện Biên Phủ) nên Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai các văn bản tố tụng của Tòa án liên quan đến việc giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 179 của Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng cho đến nay ông H, bà T vẫn không đến tham gia phiên tòa. Xét thấy, sự vắng mặt của ông H, bà T không ảnh hưởng đến việc xét xử nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông H, bà T theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Ngày 06/7/2018 Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ ra Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số: 04/2018/QĐ-BPKCTT Phong tỏa tài sản là thửa đất số 112, tờ bản đồ số 50 (bản đồ lập năm 2010) có diện tích là 205.7 m2 tại tổ dân phố 5, phường H, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên mang tên Vũ Đình H, Vũ Thị T theo yêu cầu của bà Cao Thị Thu H là đảm bảo đúng quy định tại khoản 11 Điều 114 và Điều 126 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Theo giấy vay tiền mặt ngày 11/9/2017 thì ông H có vay của bà H số tiền 3.200.000.000 đồng không có lãi để làm công trình xây dựng hẹn đến 30/9/2018 ông H phải trả hết cho bà H số tiền trên. Khi vay hai bên có thỏa thuận với nhau là sẽ trả thành nhiều lần. Sau đó ông H mới trả cho bà H được 200.000.000 đồng (do kế toán của công ty Song H đã ứng trả cho bà H) vào ngày 20/10/2017. Sau đó đã rất nhiều lần bà H gọi điện thoại cho ông H và tìm đến nhà nhưng không gặp được ông H để đòi nợ số tiền còn lại. Vì vậy nay bà H yêu cầu ông H phải trả cho bà H số tiền là 3.000.000.000 đồng. Tại phiên tòa bà H khẳng định ông H vay số tiền trên với danh nghĩa cá nhân mà không liên quan đến Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng Song H.

Do ông H không có mặt trên địa bàn nơi cư trú nên để đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp cho mình bà H đã có đơn yêu cầu giám định đối với chữ ký của người vay là ông Vũ Đình H (Vũ Song H) trong giấy vay tiền ngày 11/9/2017. Tại kết luận giám định số: 769/GĐ-PC54 ngày 06/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Chữ ký đứng tên Vũ Song H dưới mục “Người vay” trên “Giấy vay tiền” đề ngày 11/9/2017 với chữ ký đứng tên Vũ Đình H dưới mục “Người vay tiền” trên các tài liệu: Giấy vay tiền đề ngày 01/5/2015, ký hiệu M1 và Giấy vay tiền đề ngày 23/3/2015, ký hiệu M2 là do cùng một người ký ra.

Tại kết luận giám định số: 92/GĐ-PC54 ngày 30/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Chữ ký đứng tên Vũ Song H dưới mục “Người vay” trên “Giấy vay tiền” đề ngày 11/9/2017 với chữ ký đứng tên Vũ Đình H trên các tài liệu: Phụ lục hợp đồng số: 02/HĐ-XL đề ngày 22/01/2014 dưới mục “Đại diện bên B”, ký hiệu M1; “Hợp đồng thi công xây dựng” số: 256/2012/HĐXL V/v thi công xây dựng hệ thống điện chiếu sáng thuộc công trình đường S đi bệnh viện tỉnh đề ngày 27/8/2012 dưới mục “Đại diện nhà thầu” ký hiệu M2; “Hợp đồng thi công xây dựng công trình” số: 32/2012/HĐ-XD V/v thi công gói thầu xây dựng xây lắp phần đường giao thông thuộc công trình đường S đi bệnh viện tỉnh ngày 15/02/2012 dưới mục “Đại diện nhà thầu” ký hiệu M3 là do cùng một người ký ra.

Từ những phân tích và nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H và buộc ông H phải có trách nhiệm trả cho bà H số tiền là 3.000.000.000 đồng là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 463 Bộ luật dân sự năm 2015.

Xét việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với thửa đất số 112, tờ bản đồ số 50 (bản đồ lập năm 2010) có diện tích là 205.7 m2 tại tổ dân phố 5, phường Him Lam, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên mang tên ông Vũ Đình H (Vũ Song H) và bà Vũ Thị T: Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên sẽ ra ngay Quyết định hủy bỏ việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng tại Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số: 04/2018/QĐ-BPKCTT ngày 06/7/2018 đồng thời cho bà Cao Thị Thu H được nhận lại toàn bộ tài sản bảo đảm là số tiền 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng) mà bà H đã nộp tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Đ, tỉnh Điện Biên vào ngày 05/7/2018 sau khi bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ:

Yêu cầu khởi kiện của bà Cao Thị Thu H được chấp nhận nên bà H không phải chịu tiền chi phí giám định, chi phí cho việc giám định chữ ký hết 9.690.000 đồng. Vì vậy buộc ông Vũ Đình H (Vũ Song H) phải chịu 9.690.000 đồng (Chín triệu, sáu trăm chín mươi nghìn đồng) tiền chi phí giám định theo quy định tại khoản 2 Điều 161, Điều 162 Bộ luật tố tụng dân sự.

[4] Về án phí: Yêu cầu khởi kiện của bà Cao Thị Thu H được chấp nhận nên bà H không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.

Buộc ông Vũ Đình H (Vũ Song H) phải chịu 92.000.000 đồng đồng án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch (72.000.000 đồng x 2% của 1.000.000.000 đồng = 92.000.000 đồng) theo quy định tại khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về pháp luật áp dụng: Áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 điều 39, điểm g khoản 1 Điều 138, khoản 1 Điều 147, khoản 2 Điều 161, Điều 162, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Áp dụng Điều 463, 464, 465, 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Áp dụng khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

2. Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Cao Thị Thu H. Buộc ông Vũ Đình H (tên gọi khác: Vũ Song H) phải có trách nhiệm trả cho bà Cao Thị Thu H số tiền là 3.000.000.000 đồng (Ba tỷ đồng).

3. Về chi phí giám định: Buộc ông Vũ Đình H (Vũ Song H) phải chịu 9.690.000 đồng (Chín triệu, sáu trăm chín mươi nghìn đồng) tiền chi phí giám định. Ông H phải hoàn trả lại cho bà Cao Thị Thu H số tiền 9.690.000 đồng chi phí giám định.

4. Về án phí: Bà Cao Thị Thu H không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch. Hoàn trả lại cho bà H toàn bộ số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 46.000.000 đồng (Bốn mươi sáu triệu đồng) tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2010/0001924 ngày 02 tháng 7 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên.

Buộc ông Vũ Đình H (Vũ Song H) phải chịu 92.000.000 đồng (Chín mươi hai triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.

5. Về nghĩa vụ thi hành án: Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (bà H) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án (ông H) còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

 “Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự - người phải thi hành dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 , 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

6. Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên sẽ ra ngay Quyết định hủy bỏ việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời: Phong tỏa tài sản là thửa đất số 112, tờ bản đồ số 50 (bản đồ lập năm 2010) có diện tích là205.7 m2 tại tổ dân phố 5, phường H, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên mang tên Vũ Đình H, Vũ Thị T (được áp dụng tại Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số: 04/2018/QĐ-BPKCTT ngày 06/7/2018) đồng thời cho bà Cao Thị

Thu H được nhận lại toàn bộ tài sản bảo đảm là số tiền 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng) mà bà H đã nộp tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Đ, tỉnh Điện Biên vào ngày 05/7/2018 kể từ sau khi bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

7. Về quyền kháng cáo: Bà Cao Thị Thu H có mặt có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Vũ Đình H (tên gọi khác: Vũ Song H) và bà Vũ Thị T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày Tòa án niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

414
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 03/2018/DS-ST ngày 21/12/2018 về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản

Số hiệu:03/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 21/12/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;