Bản án 02/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Q, TỈNH HÀ GIANG

BẢN ÁN 02/2024/HS-ST NGÀY 01/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01 tháng 3 năm 2024, tại điểm cầu Trung tâm Tòa án nhân dân huyện Q và điểm cầu Thành phần: Nhà tạm giữ Công an huyện Q xét xử sơ thẩm công khai, trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số 03/2024/TLST-HS ngày 01 tháng 02 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2024/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 02 năm 2024 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn C; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 02 tháng 7 năm 1988 tại xã Q, huyện S, tỉnh Vĩnh Phúc; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Đ, xã Q, huyện S, tỉnh Vĩnh Phúc. Nơi ở hiện tại: Thôn N, thị trấn T, huyện Q, tỉnh Hà Giang; Số căn cước công dân: 02608800xxxx, cấp ngày 05/10/2018. Nơi cấp: Cục cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Bộ Công an; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn K; Sinh năm: 1955 và bà Nguyễn Thị V; Sinh năm: 1957 Tình trạng hôn nhân: Có vợ thứ nhất là Nguyễn Thị M; sinh năm: 1991, có 2 con chung, đã ly hôn 2018. Vợ thứ hai: Long Thị Q và có 01 con chung sinh năm 2020;

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 16/11/2021 bị xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Quyết định số 06/QĐ-TA ngày 23/5/2016 của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Vĩnh Phúc quyết định đưa bị cáo vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/11/2023, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Q. Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn C: Ông Nguyễn Minh H – Trợ giúp viên, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Hà Giang. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Long Thị Q, sinh năm 1980, trú tại: Thôn N, thị trấn T, huyện Q, tỉnh Hà Giang. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 06 giờ 30 phút, ngày 01/11/2023, Nguyễn Văn C một mình điều khiển xe máy nhãn hiệu HONDA, số loại DREAM, mang BKS 23L1-xxxxx di chuyển từ nhà riêng thuộc thôn N, thị trấn T, huyện Q, tỉnh Hà Giang đến thành phố Hà Giang. Khi đến địa phận thành phố Hà Giang, C đã vào 01 cây ATM thuộc ngân hàng AGRIBANK để rút 900.000 đồng rồi đi khám tại Bệnh viện Đa khoa Đ thành phố H. Sau đó trả tiền mua thuốc và tiền ăn sáng hết gần 400.000 đồng. Khoảng 08 giờ 00 phút, Cao đi đến khu vực bến xe khách thành phố H. Tại đây, C có gặp 01 người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ, có đặc điểm dáng người dỏng cao, mặc áo khoác màu nâu đen, đội mũ bảo hiểm có cằm và di chuyển bằng phương tiện xe máy nhãn hiệu HONDA, số loại DREAM ( không nhớ biển kiểm soát). C đã hỏi người đàn ông trên: “Ở dưới này có chỗ bán thuốc không?” (tức là hỏi mua ma túy, loại Heroin), người đàn ông đáp lại: “Lấy bao nhiêu?”, Cao nói: “Lấy 500.000 đồng”, người đàn ông trên bảo C đưa tiền trước để đi lấy ma túy về bán cho C, C đồng ý và đưa cho người đàn ông trên một tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng . Sau khi nhận tiền, người đàn ông điều khiển xe máy đi về hướng huyện V, C đứng đợi ở đầu C khoảng 30 phút thì người đàn ông quay lại và đưa cho C một chiếc khẩu trang cũ, màu ghi và nói đã có sẵn ma túy, loại Heroin ở bên trong. C nhận và sờ nắn mặt ngoài phần giữa khẩu trang, sờ thấy một vật có hình trụ giống ống nhựa. Sau đó, C đeo chiếc khẩu trang trên lên mặt, điều khiển xe theo đường Quốc lộ 4C đi về Q. Trên đường đi có vào một hiệu thuốc ven đường tại khu vực phường N, thành phố H mua 02 xi lanh loại bơm tiêm sử dụng một lần, 03 ống nước cất loại NOVOCAIN 3% hết 5.000 đồng mục đích để pha Heroin rồi tiêm vào trong cơ thể qua đường tĩnh mạch. Khi đến địa phận thôn V, xã Q, huyện Q, tỉnh Hà Giang tại KM35+600 đường Quốc lộ 4C bị lực lượng Công an huyện Q kiểm tra, phát hiện ở bên trong khẩu trang C đang đeo có chứa 01 ống nhựa, được hàn kín hai đầu, bên trong ống có chất bột màu trắng, nghi là ma túy, sau đó lập biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng vật chứng thu giữ gồm:

- 01 chiếc xe máy, nhãn hiệu HONDA, số loại DREAM, màu trắng đen, BKS 23L1-xxxxx, tình trạng cũ, đã qua sử dụng;

- 02 bật lửa gas, nhãn hiệu “PIONEER”, kích thước dài 7,5cm, rộng 03cm, đã qua sử dụng;

- 02 bơm kim tiêm sử dụng một lần, tình trạng mới, còn nguyên vẹn.

- 03 ông thuốc thủy tinh có tên “NOVOCAIN 3%” thể tích 02ml, tình trạng mới, còn nguyên vẹn;

- 01 điện thoại nhãn hiệu APPLE, số loại IPHONE 11 PROMAX, màu xanh đen, tình trạng cũ, đã qua sử dụng;

- 01 biên lai giao dịch, có ngày giờ giao dịch là 08;00 phút, ngày 01/11/2023, có số giao dịch là 876775xxxx của Ngân hàng AGRIBANK - 0 khẩu trang màu ghi bên trong có dán 01 ống nhựa màu trắng bên trong có chất bột màu trắng nghi là Heroin.

Kết luận giám định số 359/KL-KTHS của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Giang kết luận: Chất bột màu trắng ngà là ma túy, loại Heroine. có tổng khối lượng là 0,183g (không phẩy một trăm tám mươi ba gam). Heroine nằm trong danh mục I, mục IA, số thứ tự 9, Nghị định số 57/2022/NĐ-CP, ngày 25/8/2022 của Chính phủ.

Ngoài ra khi khám xét tại nơi ở của Nguyễn Văn C đã thu giữ: 02 vỉ thuốc Terpincold.

Tại phiên tòa chị Long Thị Q trình bày: Chị và bị cáo có đăng ký kết hôn và có 01 con chung, sáng ngày 01/11/2023 bị cáo có đi khám bệnh tại thành phố H bằng xe máy nhãn hiệu HONDA, số loại DREAM, màu trắng đen, BKS 23L1-xxxxx là tài sản chung của vợ chồng, đến năm 2019 có đi đăng ký lại mang tên bị cáo, hiện nay là phương tiện sử dụng hàng ngày của gia đình nên chị đề nghị được trả lại.

Quá trình điều tra nhận thấy có những vật chứng không liên quan đến việc giải quyết vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Q tiến hành trả lại cho chị Long Thị Q (vợ của bị caó) gồm:

- 01 điện thoại di động, nhãn hiệu APPLE, số loại IPHONE 11 PROMAX, màu xanh đen, tình trạng cũ, đã qua sử dụng;

- 02 bật lửa gas, nhãn hiệu “PIONEER”, có kích thước dài 7,5cm, rộng 03cm, tình trạng cũ, đã qua sử dụng;

- 02 vỉ thuốc Terpincold, tình trạng mới, còn nguyên vẹn.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn C thừa nhận là người nghiệm ma túy nên vào sáng ngày 01/11/2023 có hành vi mua ma túy (heroine) về sử dụng, quá trình thu giữ, cân tịnh, niêm phong vật chứng đều được tham gia, có chữ ký nhận của bị cáo. Chị Long Thị Q (vợ bị cáo) thừa nhận vợ chồng có đăng ký kết hôn và năm 2020 đã sinh được con chung, bị cáo đi khám bệnh và mua ma túy để sử dụng chị không biết, xe máy sử dụng là tài sản chung của vợ chồng, hàng ngày sử dụng chung nên đề nghị được trả lại.

Theo cáo trạng số 03/CT-VKSQB ngày 31/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn C và người bào chữa thừa nhận tội danh như cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiếm sát luận tội, tranh luận, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa như sau:

Đối với bị cáo Nguyễn Văn C có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy có khối lượng 0,183gam nên áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 20 đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy:

- 02 bơm kim tiêm sử dụng một lần.

- 03 ông thuốc thủy tinh có tên “NOVOCAIN 3%” thể tích 02ml.

- 01 phong bì màu trắng, niêm phong kín, mặt trước phong bì ghi chữ: “khẩu trang, vỏ ống nhựa và phong bì niêm phong cũ, kí hiệu A1”.

- 01 phong bì màu trắng, niêm phong kín, mặt trước phong bì ghi “Mẫu vật hoàn lại sau giám định kí hiệu A” - 01 phong bì màu trắng, niêm phong kín, mặt trước phong bì ghi “vỏ bao gói sau giám định”.

- 01 biên lai giao dịch của Ngân hàng AGRIBANK, có số giao dịch:

876775xxxx.

- Trả lại bị cáo: Xe máy, nhãn hiệu HONDA, số loại DREAM, màu trắng đen, BKS 23L1-xxxxx, giấy chứng nhận đăng ký mang tên Nguyễn Văn C, đăng ký ngày 06/12/2019. Xét thấy là tài sản chung của vợ chồng bị cáo, mặt khác ngày 01/11/2023 bị cáo đi khám bệnh sau đó nảy sinh ý định mua ma túy về sử dụng, do vậy cần trả lại xe máy cho bị cáo là phù hợp.

Về án phí: Cần chấp nhận miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Quá trình tranh luận các bên giữ nguyên quan điểm, không có tài liệu, chứng cứ bổ sung. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quyết định.

Khi được nói lời sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định trong quá trình tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, của người được giao thẩm quyền tiến hành tố tụng đối với vụ án trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người khác không có ý kiến và khiếu nại gì nên các hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Tại phiên toà bị cáo Nguyễn Văn C đã khai nhận ngày 01/11/2023 mua ma túy của một người không biết tên tại địa bàn thành phố H để mang về sử dụng và và vật chứng thu được là 0,183 gam ma túy (heroine) phù hợp lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, biên bản khám xét thu giữ vật chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên đủ căn cứ bị cáo phạm tội tàng trữ trái phép trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã vi phạm pháp luật về phòng chống ma túy, xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự xã hội, đạo đức, lối sống, văn hóa và sức khỏe của bản thân và của người khác, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Bởi vậy phải xử lý nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là hộ nghèo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về áp dụng hình phạt chính: Trên cơ sở xem xét nhận định đầy đủ, tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đánh giá nhân thân, thái độ của bị cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng thời điểm thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc, tàng trữ, sử dụng ma túy là trái pháp luật, tuy nhiên vì coi thường kỷ cương nên đã phạm tội. Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ như đại diện Viện kiểm sát, người bào chữa đề nghị là có căn cứ. Hành vi của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng nên cần xử phạt mức án như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q là phù hợp, đảm báo tính giáo dục, dăn đe và phong ngừa chung.

[7] Về hình phạt bổ sung: Các tài liệu xác định các bị cáo không có nghề nghiệp, tài sản, bị cáo thuộc hộ nghèo nên không phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy đối với vật chứng thuộc trường hợp nhà nước cấm lưu hành, liên quan việc phạm tội gồm:

- 01 phong bì màu trắng, niêm phong kín, mặt trước phong bì ghi chữ: “khẩu trang, vỏ ống nhựa và phong bì niêm phong cũ, kí hiệu A1”, mặt sau có 02 (hai) hình dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện Q và các chữ kí, chữ viết của các thành phần tham gia niêm phong;

- 01 phong bì màu trắng, niêm phong kín, mặt trước phong bì ghi “Mẫu vật hoàn lại sau giám định kí hiệu A”, mặt sau phong bì có 02 (hai) hình dấu tròn đỏ của Phòng Kĩ thuật hình sự, Công an tỉnh Hà Giang và các chữ kí, chữ viết của thành phần tham gia niêm phong;

- 01 phong bì màu trắng, niêm phong kín, mặt trước phong bì ghi “vỏ bao gói sau giám định”, mặt sau phong bì có 02 (hai) hình dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Hà Giang và các chữ ký, chữ viết của thành phần tham gia niêm phong.

- 02 bơm kim tiêm sử dụng một lần, tình trạng mới, còn nguyên vẹn.

- 03 ông thuốc thủy tinh có tên “NOVOCAIN 3%” thể tích 02ml, tình trạng mới, còn nguyên vẹn;

- 01 biên lai giao dịch, có số giao dịch là 876775xxxx của Ngân hàng AGRIBANK Về xe máy, nhãn hiệu HONDA, số loại DREAM, màu trắng đen, BKS 23L1- xxxxx, giấy chứng nhận đăng ký mang tên Nguyễn Văn C, đăng ký ngày 06/12/2019. Xét thấy là tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân, mặt khác ngày 01/11/2023 mục đích bị cáo đi khám bệnh sau đó nảy sinh ý định mua ma túy về sử dụng, do vậy cần trả lại cho vợ chồng bị cáo là phù hợp.

[10] Về án phí: Chấp nhận đơn xin miễn án phí của bị cáo Nguyễn Văn C.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C 22 (hai mươi hai) tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 01 tháng 11 năm 2023). Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy:

- 01 phong bì màu trắng, niêm phong kín, mặt trước phong bì ghi chữ: “khẩu trang, vỏ ống nhựa và phong bì niêm phong cũ, kí hiệu A1”.

- 01 phong bì màu trắng, niêm phong kín, mặt trước phong bì ghi “Mẫu vật hoàn lại sau giám định kí hiệu A”.

- 01 phong bì màu trắng, niêm phong kín, mặt trước phong bì ghi “vỏ bao gói sau giám định”.

- 02 bơm kim tiêm sử dụng một lần.

- 03 ông thuốc thủy tinh có tên “NOVOCAIN 3%” thể tích 02ml.

- 01 biên lai giao dịch, có số giao dịch là 876775xxxx của Ngân hàng AGRIBANK.

Trả lại bị cáo Nguyễn Văn C:

- 01 chiếc xe máy, nhãn hiệu HONDA, số loại DREAM, màu trắng đen, BKS 23L1-xxxxx, tình trạng cũ, đã qua sử dụng;

Tình trạng đặc điểm vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quản Bạ với Chi cục thi hành án dân sự huyện Q, ngày 31/01/2024.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo Nguyễn Văn C được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6,7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

120
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 02/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:02/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quản Bạ - Hà Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;