Bản án 02/2022/KDTM-ST về tranh chấp hợp đồng đại lý phân phối sản phẩm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN Ô, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 02/2022/KDTM-ST NGÀY 14/04/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ PHÂN PHỐI SẢN PHẨM

Ngày 14 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Ô, thành phố Cần Thơ tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số: 02/2021/TLST- KDTM ngày 24 tháng 02 năm 2021 về việc, tranh chấp hợp đồng đại lý phân phối theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2022/QĐST-KDTM ngày 24/2/2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: CÔNG TY TNHH P (Tên cũ: Công ty P V) Địa chỉ: Lầu X, Cao ốc S, số 88 đường Đồng K, phường Bến N, quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh.

Đại diện theo ủy quyền:

Ông: Đào Đình C, sinh năm: 1975. Địa chỉ liên hệ: Số 70 Lữ G, phường L, quận M, Thành phố Hồ Chí Minh. Vắng mặt

Bà: Huỳnh Thị Bích P, sinh năm: 1997. Vắng mặt Địa chỉ liên hệ: Số 70 Lữ G, phường L, quận M, Thành phố Hồ Chí Minh

2. Bị đơn: BÀ TRẦN THỊ HH-CHỦ HỘ KINH DOANH TRẦN THỊ HH. Vắng mặt Địa chỉ: Ấp Ch, thị trấn Định A, huyện Trà C, tỉnh Trà Vinh

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu, chứng cứ, tình tiết có trong hồ sơ vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 21/12/2018, Công ty TNHH P-Chi nhánh tại Cần Thơ (sau đây gọi tắt PP) và bà Trần Thị HH – chủ Hộ kinh doanh Trần Thị HH (sau đây gọi tắt bà H) có ký kết Hợp đồng đại lý phân phối sản phẩm số LDMS.141.2018.0063 có thời hạn từ ngày 01/01/2019 đến 31/12/2021 (Sau đây gọi là “Hợp đồng Đại lý”) và các phụ lục đính kèm.

Theo Hợp đồng Đại lý, bà H sẽ là nhà phân phối các loại sản phẩm nước giải khát của PP. PP bán hàng cho bà H theo hình thức mua trả chậm và cho mượn vỏ két, pallet... (bao bì). Hạn mức trả chậm, thời gian trả chậm tùy vào hiệu quả kinh doanh của bà H phù hợp với chính sách bán hàng trả chậm của PP và được PP thông báo cho từng nhà phân phối trong từng thời kỳ. Việc hoàn trả vỏ két pallet cũng được áp dụng theo chính sách tương ứng của PP. Trong trường hợp hợp đồng đại lý chấm dứt, bên mua hàng phải hoàn thành nghĩa vụ trả nợ tiền hàng theo chính sách mua hàng trả chậm và hoàn trả bao bì mượn trong thời hạn tối đa 02 tháng kể từ ngày hợp đồng chấm dứt.

Hợp đồng Đại lý đã được chấm dứt vào 01/6/2019 (theo biên bản làm việc giữa các bên về việc bà H không thể đáp ứng yêu cầu của các tuyến bán hàng). Do đó, bà H phải hoàn thành dứt điểm mọi nghĩa vụ đối với PP. Tính đến ngày 01/12/2020, công nợ của bà H đối với PP như sau:

STT

Diễn giải

Số lượng

Đơn giá

Thành tiền

1

Tiền hàng

 

337.350.169

2

Nợ vỏ chai

160.240

2.500

400.600.000

3

Nợ Két nhựa

7.056

28.000

197.568.000

4

Nợ Pallet

137

300.000

41.100.000

5

Thu hồi hỗ trợ xe forklift (do thanh lý hợp đồng trước hạn)

 

100.000.000

TỔNG:

1.076.618.169

Đơn giá bồi thường khi không hoàn trả được tài sản mượn (bao bì) được xác định theo phương thức quy định trong Phụ kiện mua hàng trả chậm và mượn vỏ két.

Với mối quan hệ hợp tác kinh doanh lâu dài, PP đã nhiều lần thương lượng và tạo cơ hội để bà H thanh toán số công nợ nêu trên. Tuy nhiên, PP đã không nhận được sự hợp tác của bà H Nay, PP đề nghị toà án giải quyết các yêu cầu sau đây:

1. Buộc Bà Trần Thị HH – Chủ HKD Trần Thị HH thanh toán cho PP số tiền hàng còn nợ là: 337.350.169₫ (Ba trăm ba mươi bảy triệu, ba trăm năm mươi ngàn, một trăm sáu mươi chín đồng);

2. Buộc Bà Trần Thị HH – Chủ HKD Trần Thị HH bồi thường cho PP số tiền 739.268.000₫ (Bảy trăm ba mươi chín triệu, hai trăm sáu mươi tám ngàn đồng) do không hoàn trả được tài sản mượn (bao bì) của PP.

Như vậy, tổng số tiền yêu cầu là 1.076.618.169₫ (Một tỷ không trăm bảy mươi sáu triệu, sáu trăm mười tám ngàn, một trăm sáu mươi chín đồng). Thi hành ngay khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

3. Buộc bà Trần Thị HH – Chủ HKD bà H hoàn trả cho PP số tiền hỗ trợ Forklift mà PP đã hỗ trợ là 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng).

- Bà Trần Thị HH trình bày:

+ Về công nợ tiền hàng: Bà H thống nhất số công nợ tiền hàng mà bà H còn nợ PP theo như số công nợ mà PP đã yêu cầu trong đơn khởi kiện, cụ thể là 337.350.169 đồng, nhưng bà cho rằng bà đã thanh toán 80.000.000 đồng đối với số nợ này. Số nợ còn lại, bà H yêu cầu sẽ thanh toán số công nợ tiền hàng theo kỳ là 5.000.000 đồng/tháng.

+ Về công nợ vỏ, két: Bà H thống nhất số lượng vỏ, két mà bà H còn nợ tại PP như số lượng mà PP yêu cầu, cụ thể là 160.240 cái vỏ chai, 7.056 cái két nhựa và 137 cái pallet nhưng đã hoàn trả cho PP 350 cái két nhựa và 8.400 cái vỏ chai . Bà H không đồng ý hoàn trả cho PP số công nợ vỏ két bằng tiền như đã giao kết trước đây với PP mà chỉ đồng ý trả bằng vỏ, két và yêu cầu sẽ thu gom và hoàn trả dần dần.

+ Về tiền hỗ trợ xe forklift (xe nâng chuyên dụng): Bà H không đồng ý hoàn trả 100.000.000 VNĐ tiền hỗ trợ xe forklift cho PP vì cho rằng bà H và PP đã thỏa thuận sau khi thực hiện Hợp đồng đại lý được 02 năm thì xe sẽ hoàn toàn thuộc sở hữu của KHD, bà cho rằng Hợp đồng mới thực hiện được hơn 01 năm thì PP đơn phương chấm dứt Hợp đồng nên PP là bên vi phạm và cho rằng thời gian mua xe đến nay đã được 03 năm nên không đồng ý hoàn trả Trong quá trình chuẩn bị xét xử, nguyên đơn có văn bản thay đổi yêu cầu khởi kiện như sau:

1. Rút lại một phần yêu cầu khởi kiện: Không yêu cầu Bà H phải hoàn trả cho PP số tiền hỗ trợ Forklift mà PP đã hỗ trợ là 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng).

2. Số tiền hàng còn nợ: Buộc Bà Trần Thị HH – Chủ HKD Trần Thị HH thanh toán cho PP số tiền hàng còn nợ là: 307.350.169 đồng (Ba trăm lẻ bảy triệu, ba trăm năm mươi ngàn, một trăm sáu mươi tám đồng).

3. Tiền vỏ, két, pallet: Buộc bà H phải bồi thường cho PP: 153.040 cái vỏ chai, 6.756 cái két nhựa và 137 cái pallet tương ứng với số tiền: (153.040 x 2.500) + (6.756 x 28.000) + (137 x 300.000) = 612.868.000 đồng (Sáu trăm mười hai triệu, tám trăm sáu mươi tám ngàn đồng) do không hoàn trả tài sản đã mượn của PP như cam kết. Nhưng với tinh thần hợp tác, hỗ trợ, PP đồng ý cho bà H hoàn trả số vỏ két này bằng hiện vật trong thời hạn 02 tháng kể từ ngày Bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Trong thời hạn này, bà H hoàn trả được bao nhiêu vỏ két thì sẽ được đối trừ với tổng số nợ vỏ két trên, phần vỏ két còn lại bà H phải trả một lần, bằng tiền với đơn giá: vỏ chai 2.500 VNĐ/chai; két nhựa 28.000 VNĐ/két nhựa và pallet là 300.000 VNĐ/pallet. Việc hoàn trả bằng tiền, sẽ phải được thực hiện trong vòng một tháng tiếp theo kể từ ngày hết thời hạn hoàn trả vỏ két được đồng ý trên.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Việc chấp hành pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký Tòa án và đương sự là đúng quy định của pháp luật.

Về nội dung: Kiểm sát viên đã phân tích đầy đủ, toàn diện chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Từ đó, kiểm sát viên cho rằng, yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn là có căn cứ, nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm buộc bị đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn thanh toán khoản nợ và bồi thường giá trị hàng hóa theo hợp đồng đại lý phân phối sản phẩm, bị đơn không đồng ý, nên các bên phát sinh tranh chấp. Vì vậy, vụ án có quan hệ pháp luật “Tranh chấp hợp đồng đại lý phân phối sản phẩm” theo Điều 168 Luật thương mại; Khoản 1 Điều 30, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[2].Về tố tụng: Các bên đương sự vắng mặt tại phiên tòa, nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định tại Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3].Về nội dung vụ án:

[3.1]. Ngày 21/12/2018, PP và bà H có ký kết Hợp đồng đại lý phân phối sản phẩm số LDMS.141.2018.0063 có thời hạn từ ngày 01/01/2019 đến 31/12/2021. Đến ngày 01/6/2019, PP đơn phương chấm dứt hợp đồng với bà H (theo biên bản làm việc giữa các bên về việc bà H không thể đáp ứng yêu cầu của các tuyến bán hàng), bà H không phản đối khiếu nại gì, đồng thời bà H cũng đồng ý chốt công nợ với PP. Từ đó, Hội đồng xét xử nhận thấy các bên đã thống nhất thanh lý hợp đồng.

[3.2]. Về công nợ tiền hàng:

Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Bà H thống nhất số công nợ tiền hàng mà bà H còn nợ PP theo như số công nợ mà PP đã yêu cầu trong đơn khởi kiện, cụ thể là 337.350.169 đồng, nhưng bà cho rằng bà đã thanh toán 80.000.000 đồng đối với số nợ này. Tuy nhiên xét thấy, căn cứ vào Thư xác nhận công nợ ngày 03/01/2019 thì tính đến ngày 31/12/2018, số công nợ tiền hàng mà bà H còn nợ PP là 600.435.288 đồng, qua các lần thanh toán cũng như giảm trừ, chiết khấu thì tính đến ngày 16/6/2019, công nợ tiền hàng mà bà H còn nợ PP là 479.628.368 đồng. Sau đó, PP có cấn trừ thêm tiền chiết khấu và bà H có thanh toán tiếp cho PP một số khoản, tương ứng với các Biên lai mà bà H đã cung cấp, cụ thể như sau:

Ngày thanh toán/ chiết khấu

Số tiền thanh toán/ chiết khấu

Dư nợ tiền hàng còn lại

08/08/2019

10.000.000

469.628.368

21/08/2019 (Cấn trừ CT Marketing)

58.847.000

410.781.368

03/09/2019

10.000.000

400.781.368

10/10/2019

10.000.000

390.781.368

07/11/2019

10.000.000

380.781.368

27/12/2019

10.000.000

370.781.368

06/02/2020 (Chiết khấu)

23.431.200

347.350.168

20/02/2020

10.000.000

337.350.168

27/07/2020

10.000.000

327.350.168

09/03/2021

10.000.000

317.350.168

29/04/2021

5.000.000

312.350.168

07/12/2021

5.000.000

307.350.168

 

Như vậy, tổng số tiền hàng bà H còn nợ PP tính đến thời điểm hiện tại là 307.350.168 đồng. Nay, bà H có yêu cầu sẽ thanh toán số công nợ tiền hàng theo kỳ là 5.000.000 đồng/tháng. Nhưng không được PP đồng ý, nên cần buộc bà H phải thanh toán đầy đủ số tiền trên cho PP theo quy định chung của pháp luật.

[3.2]. Về công nợ vỏ, két, pallet: Bà H thống nhất số lượng vỏ, két mà bà H còn nợ tại PP như số lượng mà PP yêu cầu, cụ thể là 160.240 cái vỏ chai, 7.056 cái két nhựa và 137 cái pallet nhưng đã hoàn trả cho PP 350 cái két nhựa và 8.400 cái vỏ chai. Tuy nhiên, PP chỉ thừa nhận bà H đã hoàn trả cho PP 300 cái két nhựa và 7.200 cái vỏ chai. Trong trường hợp này, nghĩa vụ chứng minh theo quy định tại Điều 91 và Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự là của phía bên bị đơn bà H. Tuy nhiên, bà H không cung cấp được các tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho lời trình bày của mình, nên không có cơ sở để xem xét chấp nhận. Như vậy, tổng số bà H còn nợ PP tính đến hiện tại là: 153.040 cái vỏ chai, 6.756 cái két nhựa và 137 cái pallet tương ứng với số tiền: (153.040 x 2.500) + (6.756 x 28.000) + (137 x 300.000) = 612.868.000 đồng [3.3]. Ngoài ra, bà H còn không đồng ý hoàn trả cho PP số công nợ vỏ két bằng tiền như đã giao kết trước đây với PP mà chỉ đồng ý trả bằng vỏ, két và yêu cầu sẽ thu gom và hoàn trả dần dần. Tuy nhiên về phía PP không đồng ý với ý kiến của bà, và có viện dẫn “tại Điều 1 Phụ đính 3 về việc Quản lý công nợ ký ngày 21/12/2018 thì các bên đã thỏa thuận: “Tài sản của Bên A bao gồm nhưng không giới hạn ở vỏ bình “Postmix”, bình CO2 (“Tank”), chai và két nhựa, pallet (“Tài Sản”), được giao cùng với Sản phẩm. Bên B phải có trách nhiệm hoàn trả tài sản này cho Bên A trong thời hạn, định mức nợ hiện đang áp dụng theo chính sách của Bên A. Bên B phải bồi thường bằng tiền mặt cho Bên A theo giá trị của Tài Sản bị mất mát, hư hỏng theo bảng giá được đề cập trong Thư xác nhận công nợ, hoặc theo giá của Sản phẩm mà Bên A mua vào, tùy theo quyết định của Bên A” và theo Bảng giá trên Thư xác nhận công nợ ngày 03/01/2019 thì đơn giá như sau: “Vỏ chai 60.000 VNĐ/24 chai, tương đương 2.500 VNĐ/chai; két nhựa có giá 28.000 VNĐ/két nhựa và pallet là 300.000 VNĐ/pallet”. Hợp đồng đại lý đã chấm dứt kể từ ngày 01/6/2019, mặc dù PP đã liên hệ đôn đốc nhiều lần và tính đến thời điểm hiện tại, đã hơn 02 năm kể từ ngày Hợp đồng chấm dứt nhưng HKD HH vẫn không hoàn trả, bồi thường vỏ két cho PP”. Vì vậy, không có căn cứ để chấp nhận theo yêu cầu của bên bà H. Từ đó cần buộc bà H trong thời hạn 02 tháng kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật phải hoàn trả cho PP 153.040 cái vỏ chai, 6.756 cái két nhựa và 137 cái pallet còn nợ nêu trên. Hết thời hạn này, bà H không hoàn trả hoặc hoàn trả không đủ số lượng còn nợ nêu trên thì bà H phải bồi thường vỏ, két, pallet cho PP giá trị bằng tiền cho tổng số lượng còn nợ với đơn giá: vỏ chai 2.500 VNĐ/chai; két nhựa 28.000 VNĐ/két nhựa và pallet là 300.000 VNĐ/pallet. Số tiền bồi thường này, bà H phải thực hiện xong trong vòng một (01) tháng tiếp theo kể từ ngày hết thời hạn hoàn trả vỏ két nêu trên.

[3.4]. Về tiền hỗ trợ xe forklift (xe nâng chuyên dụng): Do PP rút lại yêu cầu khởi kiện, nên phần khởi kiện này được đình chỉ giải quyết theo quy định chung của pháp luật.

[4].Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Theo quy định tại Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án thì án phí trong vụ án được xác định:

- Bà H phải chịu: 15.367.508 đồng - PP được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng:

+ Các Điều 30, 35, 39, 91,92, 217, 228 và 266 Bộ luật Tố tụng dân sự;

+ Các Điều 168, 172, 173, 174, 175,176, 177 Luật Kinh doanh Thương mại;

+ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

- Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Công nợ tiền hàng: Buộc bà Trần Thị HH phải có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty TNHH P số tiền còn nợ là: 337.350.169 đồng (Ba trăm ba mươi bảy triệu, ba trăm năm mươi ngàn, một trăm sáu mươi chín đồng). Kể từ khi người được thi hành án nộp đơn yêu cầu thi hành án thì người phải thi hành còn phải chịu lãi suất chậm trả theo mức lãi suất được quy định tại Điều 306 Luật Thương mại tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

- Công nợ vỏ, két, pallet: Buộc bà Trần Thị HH trong thời hạn 02(hai) tháng kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật phải hoàn trả cho Công ty TNHH P: 153.040 cái vỏ chai, 6.756 cái két nhựa và 137 cái pallet còn nợ nêu trên. Hết thời hạn này, bà H không hoàn trả hoặc hoàn trả không đủ số lượng còn nợ nêu trên thì phải bồi thường vỏ, két, pallet cho PP giá trị bằng tiền cho tổng số lượng còn nợ với đơn giá: vỏ chai 2.500 VNĐ/chai; két nhựa 28.000 VNĐ/két nhựa và pallet là 300.000 VNĐ/pallet. Số tiền bồi thường này, bà H phải thực hiện xong trong vòng một(01) tháng tiếp theo kể từ ngày hết thời hạn hoàn trả vỏ két nêu trên.

2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với yêu cầu bà H phải hoàn trả số tiền hỗ trợ Forklift mà PP đã hỗ trợ là 100.000.000 đồng.

3.Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:

- Bà Trần Thị HH phải nộp: 15.367.508 đồng (Mười lăm triệu ba trăm sáu mươi bảy ngàn năm trăm lẻ tám đồng) - Công ty TNHH P được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 22.150.000 đồng (Hai mươi hai triệu một trăm năm mươi ngàn đồng) theo Biên lai thu số 011508 ngày 08 tháng 02 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ô, thành phố Cần Thơ.

Các đương sự cđược quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án đã được niêm yết theo luật định để yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a, 7ab và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án đươc thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

697
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 02/2022/KDTM-ST về tranh chấp hợp đồng đại lý phân phối sản phẩm

Số hiệu:02/2022/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ô Môn - Cần Thơ
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 14/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;