Bản án 02/2022/DS-ST về yêu cầu bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ B, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 02/2022/DS-ST NGÀY 19/10/2022 VỀ YÊU CẦU BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SỨC KHỎE BỊ XÂM PHẠM

Ngày 19/10/2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 18/2021/TLST - DS ngày 16/12/2021 “Yêu cầu bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2022/QĐXX–ST ngày 10/6/2022; theo Quyết định hoãn phiên tòa số: 14/2022/QĐST-DS ngày 27/6/2022, theo Quyết định hoãn phiên tòa số: 16/2022/QĐST-DS ngày 27/7/2022; theo Quyết định hoãn phiên tòa số: 22/2022/QĐST-DS ngày 26/8/2022; theo Quyết định hoãn phiên tòa số: 24/2022/QĐST-DS ngày 19/9/2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Lường Văn H - SN 1965 “có mặt”. Địa chỉ: Bản N K, xã T C, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lò Văn Dung, sinh năm 1958 “có mặt”;

Địa chỉ: SN 48, tổ 2, phường Nam Thanh, TPĐBP, tỉnh Điện Biên.

2. Bị đơn: Ông Hoàng Văn H, sinh năm 1982 “vắng mặt”;

Địa chỉ: Bản N K, xã T C, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Cảnh Phương, sinh năm 1965; Địa chỉ: SN 91, bản Khá, phường Nam Thanh, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên “có mặt”.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Hoàng V L, sinh năm 1990 “vắng mặt”;

- Ông Quàng V N, sinh năm 1983 “có mặt”;

- Ông Lường V C, sinh năm 1987 “vắng mặt”;

- Bà Hoàng T T, sinh năm 1971 “có mặt”;

Đều có địa chỉ: Bản N K, xã T C, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên.

Những người làm chứng:

- Lường V B, sinh năm 1992 “có mặt”;

- Lường V Đ, sinh năm 1994 “có mặt”;

Đều có địa chỉ: Bản N K, xã T C, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên.,,, ,

- Ông Trần Minh Diệm, sinh năm 1964 “vắng mặt”;

Địa chỉ: Thôn Thanh Xuân, xã Thanh Hưng, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 30/11/2021, đơn thay đổi bổ sung đơn khởi kiện ngày 08/8/2022 và trong quá trình tố tụng tại Tòa án nhân dân huyện Đ B nguyên đơn là ông Lường Văn H trình bày:

Khoảng 15 giờ ngày 11/02/2019, anh Hoàng Văn H là người cùng bản với tôi có nhờ một một số người ở cùng bản đến làm giúp là rào bờ ao, đóng cọc sắt mạ kẽm và rào bằng lưới thép B40, anh Hà đóng cọc sắt không đúng ranh giới giữa hai gia đình đã thỏa thuận từ trước nên tôi không đồng ý thế là xảy ra to tiếng với nhau, anh Hà to tiếng đe dọa đánh con trai tôi, anh N cầm dao quắm đe dọa con trai tôi, anh Hà cầm thanh sắt mạ kẽm phi thẳng vào tôi, may phía trước có hàng rào B40 nên không trúng người tôi, anh Hà hô to “Chúng mày đánh bọn này cho tao có gì tao chịu trách nhiệm”, anh Hà lao từ dưới ao lên bờ rồi đấm liên tiếp vào ngực, cằm và thái dương bên trái của tôi làm vành tai bên trái của tôi rách và chảy máu ra, cùng lúc đó Hoàng V L sông vào đấm liên tiếp vào thái dương bên trái của tôi và dùng mũ cối đập liên tiếp vào đầu tôi, rồi cả Ngôn và Cương cũng xúm vào đấm đá làm tôi lịm người đi. Lúc đó vợ tôi là Hoàng T T cũng bị đánh ngã ngửa xuống rãnh nước, tôi không nhớ là ai đánh. Sau đó anh Lò Văn Khụt là phó Công an xã T C, anh Nguyễn Văn Huyên là bộ đội Biên Phòng cắm xã, anh Lường Văn Thỉnh là công an viên và ông Hoàng Xuân Muôn là bí thư Bản N K đã lập biên bản sự việc xảy ra. Sau đó vợ con tôi đưa tôi vào bệnh xá Thanh Chăn để sơ cứu rồi chuyển lên bệnh viện đa khoa tỉnh Điện Biên điều trị. Do tôi bị trấn thương nặng nên tôi phải vào bệnh viện điều trị nhiều lần, cụ thể như sau:

- Từ ngày 11/02/2019 tôi phải đi bệnh viện cấp cứu, sau đó tôi phải đi nhập viện nhiều lần, cụ thể các ngày đi nằm viện tất cả là 05 lần nằm viện là 66 ngày và phải chi phí cụ thể như sau:

- Tiền thuốc do bác sỹ kê đơn: 1.930.000đ;

- Tiền viện phí: 10.888.000đ; Tiền chiếu chụp: 2.025.000đ;

- Tiền tôi nằm viện: 170.000đ/ngày; Năm 2019 là 26 ngày 26 x 170.000đ = 4.420.000đ (vì tôi không có bảo hiểm y tế); Đến 21/3/2019 gia đình tôi mới mua bảo hiểm cho tôi.

- Tiền chiếu chụp, mua thuốc tại bệnh viện y khoa Hà Nội là 6.300.000đ; thời gian đi vào ngày 13/11/2019 cả đi và về là 05 ngày;

- Tiền công gia đình chăm sóc 250.000đ/ngày là 61 ngày nằm viện + 05 ngày đi Hà Nội, tổng cộng 66 ngày x 250.000đ = 16.500.000đ;

- Tiền đi tàu xe + tiền bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe: 6.000.000đ; Ngoài ra còn các khoản khác gồm:

1. Tiền thu nhập thực tế trong một tháng của tôi:

- Tiền bảo vệ kho xưởng 100.000đ/(ngày, đêm) là 3.000.000đ/tháng;

- Tiền tranh thủ sản xuất gạch ban ngày 250.000đ/ngày, trừ những ngày nghỉ mỗi tháng ông Diệm trả tôi 25 công là: 25 công x 250.000đ = 6.250.000đ.

Cộng hai khoản trên: 9.250.000đ/tháng.

2. Tiền thu nhập thực tế bị mất trong thời gian nằm viện ở tỉnh và đi khám chấn thương sọ não ở Bệnh viện đại học y Hà Nội là 66 ngày (hai tháng sáu ngày).

- Tiền bảo vệ kho xưởng 100.000đ/(ngày,đêm);

- Tiền tranh thủ sản xuất gạch ban ngày 250.000đ/ngày;

Cộng hai khoản: 100.000đ + 250.000đ = 350.000đ x 66 ngày = 23.100.000đ.

3. Tiền mất việc làm khi tôi bị thương tích từ khi sự việc xảy ra ngày 11/02/2019 đến hết tháng 12/2019 tôi phải đi viện mất 02 tháng 06 ngày, còn lại tôi không có việc làm là 08 tháng x 9.25.000đ/tháng = 74.000.000đ;

4. Tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do hành vi của Hà, Linh, Ngôn, Cương xâm phạm;

1.490.000đ x 2,5 lần = 3.725.000đ; (Theo khoản 2 Điều 590 của Bộ luật dân sự). Tổng cộng các khoản tiền tôi dự tính là: 148.888.000đ - 5.600.000đ tiền gia đình ông Hà nộp tạm ứng viện phí còn 143.288.000đ (Một trăm bốn mươi ba triệu hai trăm tám mươi tám nghìn đồng).

Nên tôi yêu cầu Tòa án giải quyết buộc các ông Hà, Linh, Ngôn, Cương phải bồi thường tổng số tiền bồi thường như trên cho tôi.

Tại bản ý kiến ngày 20/12/2021 và trong quá trình giải quyết tại Tòa án bị đơn anh Hoàng Văn H và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (Hoàng V L, Quàng V N, Lường V C) đều trình bày:

Chúng tôi không nhất trí bồi thường với tổng số tiền 194.218.000đ mà nguyên đơn yêu cầu. Chúng tôi chỉ nhất trí bồi thường tiền thuốc men, tiền nằm viện và các khoản tiền bồi thường khác theo quy định của pháp luật đối với lần đầu tiên nằm viện của nguyên đơn. Cụ thể:

-Tiền thuốc do bác sỹ kê: 1.930.000đ , tôi không đồng ý vì anh Hiêng nằm viện nhưng đi mua thuốc ở ngoài và yêu cầu hóa đơn TGTGT làm chứng.

-Tiền viện phí 10.000.000đ: Tôi chỉ đồng ý theo 03 phiếu thanh toán viện phí:

+ 2.193.573đ ngày 18/02/2019 (tổng 07 ngày nằm viên);

+ 2.914.458đ ngày 11/3/2019 (tổng 11 ngày nằm viện);

+ 955.020đ ngày 01/4/2019 (tổng 11 ngày nằm viện);

-Tiền chiếu chụp: 2.025.000đ, tôi không đồng ý vì không có hóa đơn.

- Tiền nằm viện: 250.000đ/ngày;

Năm 2019 là 61 ngày là: 61 x 250.000đ = 15.250.000đ tôi không đồng ý. Tôi chỉ chấp nhận 03 giấy thanh toán viện phí tổng 29 ngày nằm viện.

Ông Hiêng có bảo hiểm y tế số: GB4111120358363 có giá trị từ ngày 21/3/2019 đến ngày 31/12/2019.

- Tiền chiếu chụp, mua thuốc tại bệnh viện y khoa Hà Nội là 6.300.000đ; thời gian đi vào ngày 13/11/2019 cả đi và về là 05 ngày; tôi không đồng ý vì gia đình ông Hiêng tự ý đi khám, không có giấy chuyển viện, không thỏa thuận với tôi.

- Tiền công gia đình chăm sóc 250.000đ/ngày là 61 ngày nằm viện + 05 ngày đi Hà Nội, tổng cộng 66 ngày x 250.000đ = 16.500.000đ; tôi không đồng ý. Tôi chỉ đồng ý tiền công gia đình chăm sóc 29 ngày x 100.000đ = 2.900.000đ.

- Tiền đi tàu xe + tiền bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe: 6.000.000đ; Tôi không biết lấy ở đâu ra, tôi không đồng ý.

- Tiền thu nhập thực tế do mất khả năng lao động là 3.000.000đ/tháng; là công nhân làm thuê cho ông Diệm chủ xưởng gạch tại C4, phường Nam Thanh; 3.000.000đ x 3 tháng = 9.000.000đ. Tôi không đồng ý vì số tiền mất khả năng lao động được trả bên tiền nằm viện.

- Tiền thu nhập thực tế bảo vệ kho xưởng gạch ba venh ban đêm là 100.000đ/đêm, trong thời gian 93 ngày nằm viện; 93 ngày x 100.000đ=9.300.000đ;

Tôi không đồng ý vì ông Hiêng không có hợp đồng lao động và qua xác minh với ông Diệm thì ông Diệm chỉ trả cho ông Hiêng 100.000đ/ngày đêm.

- Tiền mất việc làm là 07 tháng x 6.000.000đ/tháng = 42.000.000đ; Tôi không đồng ý vì ông Hiêng và ông Diệm không có hợp đồng kinh tế.

- Tiền bù đắp tổn thất về tinh thần 1.490.000₫ x 50 lần = 74.500.000₫; (Theo khoản 2 Điều 590 của Bộ luật dân sự). Tôi không đồng ý.

Tuy nhiên, sau này trong quá trình giải quyết vụ án thì bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã thừa nhận nội dung vụ việc xảy ra xô xát với nguyên đơn là có thật và chấp nhận một phần yêu cầu bồi thường thiệt hại của nguyên đơn, đồng thời bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thống nhất chia tổng số tiền phải bồi thường cho nguyên đơn theo kỷ phần đều nhau cho từng người để bồi thường cho nguyên đơn.

Tại biên bản làm việc ngày 14/6/2022 và trong quá trình giải quyết tại Tòa án người làm chứng là ông Trần Minh Diệm trình bày:

Năm 2018 và năm 2019 tôi có thuê nhiều người làm để sản xuất gạch không nung, trong đó có anh Lường Văn H; thông qua hợp đồng bằng miệng ai đồng ý thì tôi nhận vào làm, trả công sản phẩm theo ngày, trong quá trình sản xuất và theo dõi những người khỏe mạnh, nhanh tay, quen việc, sản xuất rất năng suất tính theo ngày ra tiền có người đạt từ 400.000đ đến 500.000đ/ngày. Riêng anh Hiêng tôi thuê làm bảo vệ để trông coi kho xưởng (ngày, đêm) tôi trả 3.000.000đ/tháng, còn ban ngày anh Hiêng tranh thủ sản xuất, tôi trả công theo lao động phổ thông là từ 200.000đ đến 250.000đ/ngày. Trong quá trình sản xuất bản thân anh Hiêng khỏe mạnh bình thường như mọi người khác. Việc anh Hiêng và những người cùng bản xảy ra việc mâu thuẫn rồi xảy ra đánh nhau và sau đó phải đi nằm viện thì tôi không được biết. Sau một thời gian không thấy anh Hiêng đi làm nên tôi đã thuê người khác làm thay công việc của anh Hiêng. Sau đó một thời gian thì tôi đã chuyển nhượng xưởng gạch cho người khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Quan hệ pháp luật:

Căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án và yêu cầu của nguyên đơn. Tòa án xác định đây là vụ án “Yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”.

[2]. Về thẩm quyền giải quyết vụ án:

Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là ông Lường Văn H có địa chỉ tại Bản N K, xã T C, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên; bị đơn ông Hoàng Văn H, có địa chỉ tại Bản N K, xã T C, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên, nên theo quy định tại Khoản 6 Điều 26; Khoản 1 Điều 35; theo Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện Đ B.

[3]. Về xác định tư cách tham gia tố tụng:

[3.1]. Nguyên đơn: Ông Lường Văn H, sinh năm 1965.

Địa chỉ: Bản N K, xã T C, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên.

[3.2]. Bị đơn: Ông Hoàng Văn H, sinh năm 1982.

Địa chỉ: Bản N K, xã T C, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên.

[3.3]. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Hoàng V L, sinh năm 1990;

- Ông Quàng V N, sinh năm 1983;

- Ông Lường V C, sinh năm 1987;

- Bà Hoàng T T, sinh năm 1971;

Đều có địa chỉ: Bản N K, xã T C, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên.

[3.4]. Những người làm chứng:

- Lường V B, sinh năm 1992;

- Lường V Đ, sinh năm 1994;

Đều có địa chỉ: Bản N K, xã T C, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên.,,, ,

- Ông Trần Minh Diệm, sinh năm 1964;

Địa chỉ: Thôn Thanh Xuân, xã Thanh Hưng, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên.

[4]. Xét yêu cầu của nguyên đơn: Đòi bị đơn và những người có liên quan như anh L, anh N, anh C phải bồi thường tổng số tiền 143.288.000đ (Một trăm bốn mươi ba triệu hai trăm tám mươi tám nghìn đồng).

Hội đồng xét xử xét thấy: Theo như nội dung đơn khởi kiện của nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã thừa nhận là cùng nhau xô xát và đánh ông Hiêng là có thật. Nguyên nhân dẫn đến việc xô xát là do hai bên có lời qua tiếng lại và xảy ra mâu thuẫn dẫn đến xô xát với nhau, nên bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh L, anh N và anh C đã cùng nhau đánh ông Hiêng gây thương tích 05%, ông Hiêng phải đi nằm viện nhiều lần. Do đó, ông Hiêng khởi kiện yêu cầu những người đánh ông Hiêng phải bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm là có căn cứ.

Theo quy định tại Điều 590/BLDS thì nguyên đơn có quyền yêu cầu bị đơn và những người cùng gây thiệt hại về sức khỏe cho nguyên đơn phải bồi thường các khoản tiền như sau:

- Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

-Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại;

- Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị;

-Thiệt hại khác do luật quy định.

- Một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần.

Căn cứ trên cơ sở thương tích của ông Hiêng, các tài liệu, chứng cứ, các hóa đơn chứng từ, kết quả xác minh và xem xét các chi phí hợp lý khác, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận các khoản như sau:

- 04 phiếu thanh toán viện phí ở bệnh viện đa khoa tỉnh Điện Biên với tổng số tiền là: 6.558.141đ. (Trong đó là các ngày ra viện 18/02, 11/3, 01/4, 06/8/2019).

- 01 Giấy ra viện từ ngày 02/4 đến ngày 19/4/2019 phù hợp với lần vào viện lần thứ 04 của đơn khởi kiện, nhưng không có phiếu thanh toán viện phí.

- 01 Giấy ra viện từ ngày 14/10 đến ngày 21/10/2019 phù hợp với lần vào viện lần thứ 05 của đơn khởi kiện, nhưng không có phiếu thanh toán viện phí.

- Còn lần thứ 6 đi Hà Nội từ ngày 13/11/2019 là 05 ngày.

Do vậy, nguyên đơn đã nằm viện 66 ngày là có căn cứ và Hội đồng xét xử (HĐXX) cần chấp nhận 66 ngày nằm viện của nguyên đơn. Còn số tiền viện phí HĐXX có căn cứ chấp nhận là 6.558.141đ được chấp nhận.

-Tiền thuốc do bác sỹ kê đơn là 1.930.000đ HĐXX thấy phù hợp cần chấp nhận.

-Tiền chiếu chụp có phiếu thu 2.193.573đ HĐXX cần chấp nhận vì có phiếu thu.

-Tiền công người nhà chăm sóc theo mức lương tối thiểu của từng vùng là 3.250.000đ/tháng, mỗi tháng tính làm việc 26 ngày, do vậy mỗi ngày là 3.250.000đ :

26 ngày = 125.000đ/ngày. Do đó, 66 ngày là 66 ngày x 1.250.000đ = 8.250.000đ, bên nguyên đơn chấp nhận, HĐXX thấy phù hợp chấp nhận.

-Tiền tàu xe, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe là 6.000.000đ, bên bị đơn chấp nhận, HĐXX thấy phù hợp cần chấp nhận.

- Tiền tàu xe, tiền ăn nghỉ khi ông Hiêng đi chữa bệnh ở Hà Nội là 2.800.000đ, bên bị đơn chấp nhận, HĐXX thấy phù hợp cần chấp nhận.

- Tiền thu nhập thực tế bị mất là 66 ngày – 08 ngày nghỉ (CN) còn lại là 350.000đ x 58 ngày = 20.300.000đ do ông Hiêng làm cho nhà máy gạch ông Diệm nên HĐXX chấp nhận.

- Tiền thu nhập thực tế bị giảm sút trong 08 tháng là 3.250.000đ x 08 tháng = 26.000.000đ. Bên bị đơn chỉ chấp nhận ba tháng đầu mỗi tháng là 3.250.000đ, còn lại năm tháng tiếp theo chỉ chấp nhận 70% của mỗi tháng là 2.275.000đ, do đó:

3.250.000đ x 03 tháng = 9.750.000đ và 2.275.000đ x 05 tháng = 11.375.000đ nên tổng thu nhập thực tế bị giảm sút sẽ là: 9.750.000đ + 11.375.000đ = 21.125.000đ, bên bị đơn chấp nhận, HĐXX thấy phù hợp cần chấp nhận.

- Tiền tổn thất về tinh thần 1.490.000đ x 2,5 lần = 3.725.000đ, bên bị đơn chấp nhận, HĐXX thấy phù hợp cần chấp nhận.

Tổng cộng các khoản tiền phải bồi thường cho ông Hiêng là 72.881.714đ là phù hợp với Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 590/BLDS. Chia kỷ phần mỗi người phải bồi thường cho ông Hiêng là 72.881.714đ : 4 = 18.220.000đ (Mười tám triệu hai trăm hai mươi nghìn đồng). Trong đó có bị đơn Hoàng Văn H đã trả trước cho bên nguyên đơn tiền viện phí là 5.600.000đ, do vậy ông Hà chỉ còn phải bồi thường cho bên nguyên đơn số tiền là 12.620.000đ (Mười hai triệu sáu trăm hai mươi nghìn đồng).

Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Hiêng về việc yêu cầu bị đơn Hà và những người có liên quan như ông Linh, ông Ngôn, ông Cương phải bồi thường cho ông Hiêng tổng số tiền 143.288.000đ (Một trăm bốn mươi ba triệu hai trăm tám mươi tám nghìn đồng).

[5] Về án phí: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 147/BLTTDS; Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị đơn Hà và những người có liên quan như ông Linh, ông Ngôn, ông Cương phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm, tương ứng với số tiền mà ông Linh, ông Ngôn, ông Cương phải bồi thường cho ông Hiêng là: 18.220.000đ x 5% = 911.000đ (Chín trăm mười một nghìn đồng). Riêng ông Hà phải chịu án phí là: 12.620.000đ x 5% = 631.000đ (Sáu trăm ba mươi nghìn đồng).

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Khoản 6 Điều 26; Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 1 Điều 147; Khoản 1 Điều 235; Điều 264 và Điều 267/BLTTDS năm 2015; Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015; Khoản 1 Điều 147/BLTTDS; Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án .

1. Tuyên xử:

1.1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Lường Văn H.

Buộc bị đơn ông Hoàng Văn H và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Hoàng V L, ông Quàng V N, ông Lường V C phải có trách nhiệm liên đới bồi thường cho ông Lường Văn H chi phí khám, tiền thuốc men và điều trị; tiền thu nhập thực tế bị mất trong thời gian điều trị, phục hồi thương tích và tiền bù đắp tổn thất về tinh thần và các khoản chi phí hợp lý khác với tổng số tiền là 72.881.714đ (Bảy mươi hai triệu tám trăm tám mươi mốt nghìn bảy trăm mười bốn đồng). Chia kỷ phần ông Hà phải chịu 12.620.000đ (Mười hai triệu sáu trăm hai mươi nghìn đồng); Các ông Linh, Ngôn, Cương mỗi người phải chịu 18.220.000đ (Mười tám triệu hai trăm hai mươi nghìn đồng).

- Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Hiêng về việc yêu cầu bị đơn Hà và những người có liên quan như ông Linh, ông Ngôn, ông Cương phải bồi thường cho ông Hiêng tổng số tiền 143.288.000đ (Một trăm bốn mươi ba triệu hai trăm tám mươi tám nghìn đồng).

- Kể từ ngày ông Hiêng có đơn yêu cầu thi hành án nếu ông Hoàng Văn H và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Hoàng V L, ông Quàng V N, ông Lường V C không tự nguyện thi hành đối với khoản phải thanh toán cho ông Hiêng thì ông Hà, Linh, Ngôn, Cương phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật dân sự.

1.2. Về án phí: Ông Hoàng Văn H phải chịu 631.000đ (Sáu trăm ba mươi nghìn đồng) án phí DSST; Các ông Hoàng V L, Quàng V N, Lường V C mỗi người phải chịu 911.000đ (Chín trăm mười một nghìn đồng) án phí DSST.

1.3. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 271, Khoản 1 Điều 273/BLTTDS;

Các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Các đương sự khác vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Căn cứ Điều 26 Luật Thi hành án dân sự báo cho người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự biết: Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 02/2022/DS-ST về yêu cầu bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm

Số hiệu:02/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 19/10/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;