Bản án 02/2021/HS-ST ngày 21/01/2021 về tội buôn bán hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIAO THỦY, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 02/2021/HS-ST NGÀY 21/01/2021 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 21 tháng 01 năm 2021, tại Trường Trung học phổ thông Quất Lâm, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 02/2021/TLST-HS ngày 06 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn K; sinh năm 2001 tại xã T1, huyện T, tỉnh N; nơi cư trú: Xóm 02, xã T1, huyện T, tỉnh N; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị T2; chưa có vợ; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 14- 12- 2020, chuyển tạm giam từ ngày 18- 12- 2020 đến nay; “có mặt”.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Trần Thị N - Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Nam Định; “có mặt”.

- Người chứng kiến:

1. Anh Nguyễn Văn Th1, “vắng mặt”.

2. Anh Trần Quang Th2, “vắng mặt”.

3. Bà Nguyễn Thị T2, “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 10 năm 2020, Nguyễn Văn K mua 04 dàn pháo loại 49 quả với giá 900.000 đồng/01 dàn và 60 quả pháo dạng hình bóng đèn với giá 30.000 đồng/01quả của một người đàn ông không quen biết ở Th1 phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh mang về nhà cất giấu. Đến đầu tháng 12- 2020 qua mạng Zalo K có quen biết và kết bạn với một thanh niên không rõ tên tuổi địa chỉ, sử dụng tài khoản Zalo là “Hà Nam”. Qua trò chuyện trên Zalo thanh niên này biết K có pháo nên hỏi mua, K nhất trí bán. K và người thanh nên thống nhất giá cả 1.500.000 đồng/01 dàn loại 49 quả, 60 pháo dạng hình bóng đèn với giá 2.000.000 đồng và thống nhất giao pháo tại khu vực phía sau kiốt 86, khu du lịch Quất Lâm, thị trấn Quất Lâm, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định vào tối ngày 13- 12- 2020. Ngày 13- 12- 2020, khi K đang ở thành phố Hà Nội, K rủ anh Nguyễn Văn Th1 là bạn, về quê và đi Quất Lâm chơi nhưng không nói mục đích sang Quất Lâm để bán pháo, anh Th1 đồng ý và cả hai đi ô tô khách về, khi về đến ngã ba xã Trực Thái, huyện Trực Ninh; K và anh Th1 xuống xe, K bảo anh Th1 đứng chờ và nhờ anh Th1 gọi xe taxi để xuống Quất Lâm. Còn K đi về nhà lấy 04 dàn pháo loại 49 quả và 60 quả pháo dạng hình bóng đèn cho vào ba lô và 01 túi vải rồi mang ra ngã ba Trực Thái gặp anh Th1. Khoảng 10 phút sau, anh Trần Quang Th2 là người được Th1 thuê lái xe taxi điều khiển xe ô tô BKS 30E-124.73 đến chỗ Th1 và K đang chờ. Th1 lên ngồi ghế trước xe còn K mang toàn bộ số pháo ngồi ghế sau xe để anh Th2 chở đến khu du lịch Quất Lâm. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày khi đến gần ki ốt 86, khu du lịch Quất Lâm, K xuống xe và trực tiếp xách pháo, Th1 cũng xuống xe và đi theo K. Khi đến phía sau ki ốt 86, K thấy 01 người Th1 niên đang đứng chờ sẵn, biết đó là người mua pháo nên K đưa số pháo trên cho người thanh niên kiểm tra. Khi người thanh niên kiểm tra số pháo xong cho vào trong túi đựng và lấy tiền thanh toán thì bị tổ công tác Công an thị trấn Quất Lâm phát hiện bắt quả tang. K và người thanh niên mua pháo bỏ chạy, tuy nhiên K bị bắt ngay sau đó còn người mua pháo chạy thoát. Tổ công tác thu giữ của K 04 dàn pháo loại 49 quả/1 dàn và 60 quả pháo dạng hình bóng đèn mỗi quả đều có dây cháy chậm. Tất cả số pháo trên được niêm phong trong thùng bìa cát tông ký hiệu A. Ngoài ra, tổ công tác còn thu giữ của K 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, 01 túi ba lô vải màu đen và 01 túi vải màu xanh; thu của Nguyễn Văn Th1 01 điện thoại di động. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định.

Tại bản kết luận giám định số 1296/KTHS ngày 17 tháng 12 năm 2020 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận:

Mẫu ký hiệu A1 là pháo, có đặc tính của pháo nổ (chứa thuốc pháo và khi đốt có gây tiếng nổ), tổng trọng lượng (khối lượng) là 7,037 kg (bảy phẩy không trăm ba mươi bảy ki lô gam).

Mẫu ký hiệu A2 là pháo, có đặc tính của pháo nổ (chứa thuốc pháo và khi đốt có gây tiếng nổ), tổng trọng lượng (khối lượng) là 2,225kg (hai phẩy hai trăm mươi lăm ki lô gam).

Tổng trọng lượng (khối lượng) mẫu ký hiệu A (A1, A2) là 9,262kg (chính phẩy hai trăm sau mươi hai ki lô gam)”.

Bản Cáo trạng số 03/CT-VKS ngày 05 tháng 01 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định truy tố bị cáo Nguyễn Văn K về tội “Buôn bán hàng cấm” theo khoản 1 Điều 190 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã khai tại Cơ quan điều tra, công nhận nội dung bản cáo trạng đã truy tố là đúng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy thực hành quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn K phạm tội “Buôn bán hàng cấm”; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo ý kiến: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tình tiết bị cáo Th1 khẩn khai báo trong suốt quá trình tố tụng, hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 190, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo mức hình phạt thấp nhất và được miễn hình phạt bổ sung.

Bị cáo không bào chữa, không tranh luận gì. Trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án, bị cáo nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt và miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Giao Thủy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở xác định: Đầu tháng 12- 2020 Nguyễn Văn K thỏa thuận bán 04 dàn pháo nổ loại 49 quả/1dàn quả với giá 1.500.000 đồng/01 dàn và 60 quả pháo nổ dạng hình bóng đén với giá 2.000.000 đồng cho một người thanh niên không quen biết có sử dụng tài khoản Zalo “Hà Nam” và hẹn giao pháo vào ngày 13- 12- 2020 tại khu vực phía sau ki ốt 86, khu du lịch Quất Lâm, thị trấn Quất Lâm, huyện Giao Thủy. Khoảng 23 giờ ngày 13- 12- 2020, khi K và người thanh niên đang giao dịch mua bán pháo tại phía sau ki ốt 86, khu du lịch thị trấn Quất Lâm, huyện Giao Thủy thì bị tổ tuần tra Công an thị trấn Quất Lâm phát hiện bắt quả tang. Thu giữ của Nguyễn Văn K 04 dàn pháo loại dàn 49 quả/1 dàn, có tổng trọng lượng 7,037 kg và 60 quả pháo nổ dạng hình bóng đèn, có tổng trọng lượng 2,225 kg. Như vậy, Nguyễn Văn K có hành vi bán trái phép 9,262 kg pháo nổ với mục đích kiếm lời. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, do đó hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu Th1 tội “Buôn bán hàng cấm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 190 của Bộ luật Hình sự như cáo trạng đã truy tố.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội của bị cáo thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý về buôn bán hàng cấm, gây ảnh hưởng xấu tới an ninh, trật tự tại địa phương. Trong dịp chuẩn bị đón Tết nguyên đán Tân sửu, các ngành, các cấp đang đẩy mạnh tuyên truyền về việc nghiêm cấm hành vi sản xuất, mua bán, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng trái phép pháo nổ để có một Tết cổ truyền an toàn vui vẻ cho nhân dân nhưng bị cáo lại coi thường pháp luật, buôn bán pháo nổ là hàng hóa Nhà nước cấm, đi ngược lại với chủ trương đường lối của Đảng , chính sách pháp luật của Nhà nước, nên cần xử lý nghiêm khắc đối với bị cáo bằng pháp luật hình sự.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân tốt. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định của Bộ luật Hình sự. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã Th1 khẩn khai báo, do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt chính: Căn cứ các quy định của pháp luật, tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần xử phạt bị cáo bằng hình phạt tù có thời hạn, buộc bị cáo phải tập trung cải tạo một thời gian, có như vậy mới có tác dụng giáo dục bị cáo Th1 người có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời đáp ứng công tác phòng chống tội phạm nói chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 4 Điều 190 của Bộ luật Hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng”, tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có tài sản riêng. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về nguồn gốc số pháo nổ của Nguyễn Văn K có để bán, K khai mua của một người đàn ông không quen biết ở Th1 phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninnh. Quá trình điều tra không xác định được người đã bán pháo cho K nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với người thanh niên mua pháo của K, cơ quan cảnh sát điều tra chưa xác định được danh tính nên không có căn cứ để xác minh xử lý.

Anh Nguyễn Văn Th1 tuy đi cùng K nhưng không tham gia mua bán pháo nổ nên không xem xét xử lý.

Anh Trần Quang Th2 là người chở Th1 và K đi thị trấn Quất Lâm nhưng không biết và không tham gia buôn bán pháo nên không xem xét xử lý.

Chiếc điện thoại thu giữ của Nguyễn Văn Th1, quá trình điều tra xác định Th1 không liên quan đến hành vi phạm tội. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại chiếc điện thoại trên cho Th1 là phù hợp.

[8] Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XSMAX, màu đen, IMEI 357276091186564, đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn Văn K, là phương tiện liên lạc để bán pháo nổ sung ngân sách Nhà nước.

- Tịch thu toàn bộ số pháo nổ là vật chứng của vụ án hoàn trả sau giám định được đựng trong 01 thùng cattong; 01 túi ba lô bằng vải màu đen có dòng chữ FILA, đã qua sử dụng; 01 túi vải màu xanh, có dòng chữ VP Bank, đã qua sử dụng; 01 sim có số thuê bao 0346388055 để tiêu hủy.

[9] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn K phạm tội “Buôn bán hàng cấm”; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K 01 năm 09 tháng tù (Một năm, chín tháng tù), thời hạn tù tính từ ngày 14 tháng 12 năm 2020.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự:

- Tịch thu 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XSMAX, màu đen, IMEI 357276091186564 sung ngân sách Nhà nước.

- Tịch thu toàn bộ số pháo nổ hoàn trả sau giám định được đựng trong 01 thùng cattong; 01 túi ba lô bằng vải màu đen có dòng chữ FILA, đã qua sử dụng;

01 túi vải màu xanh, có dòng chữ VP Bank, đã qua sử dụng; 01 sim có số thuê bao 0346388055(Ghi chi tiết tại biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 05 - 01 - 2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định) để tiêu hủy.

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Văn K phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo Nguyễn Văn K, người bào chữa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 02/2021/HS-ST ngày 21/01/2021 về tội buôn bán hàng cấm

Số hiệu:02/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giao Thủy - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;