Bản án 02/2021/HSST ngày 12/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 02/2021/HSST NGÀY 12/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh P mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 102/2020/HSST ngày 16 tháng 11 năm 2020. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 102/2020/QĐXXST – HS ngày 28 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Hoài N, sinh năm 1998, tại tỉnh P.

Nơi cư trú: thôn 5, xã M, huyện B, tỉnh P; nghề nghiệp: công nhân; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thanh H và bà Trần Thị V;Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/6/2020 cho đến nay ( Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 23/6/2020, Nguyễn Hoài N đi từ nhà tại thôn 5, xã M, huyện B, tỉnh P ra ngã ba A, huyện B gặp uống cà phê với người bạn tên là D (không rõ nhân thân, lai lịch) do quen biết trước đó ở E. Trong lúc uống cà phê, D có cho N 01 gói ma túy đá, N cầm rồi cất giữ trong túi quần bên pH đi về nhà, còn D đi về E. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, N nhờ Nguyễn Hoàng F chở đến nhà của Triệu Văn T tại thôn 5, xã M, huyện B, tỉnh P để chơi và sử dụng gói ma túy mà D đã cho N trước đó. Đến khoảng 23 giờ 30 phút, tại nhà của T, khi N vừa chuẩn bị lấy gói ma túy ra sử dụng thì bị lực lượng Công an vào kiểm tra. Lúc này, N tự móc ra trong túi quần bên pH của mình 01 gói nylon có chứa chất màu trắng và khai nhận là ma túy đá. Sau đó, lực lượng Công an lập biên bản phạm tội quả tang, niêm phong tang vật và đưa N về trụ sở làm việc.

Tại bản giám định số 151/2020/GĐ-MT ngày 30/6/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh P kết luận: Chất màu trắng có trong gói nylon (ký hiệu M có chữ ký của N cùng chữ ký của Nguyễn Hoàng F, Điểu Thị L, Trần Văn Q, Đàm Văn K – Phó trưởng Công an xã) được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là: 0,1541 gam.

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị can thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

- Về vật chứng vụ án: Số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong 01 phong bì số 151 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh P; số tiền 500.000 đồng; 01 điện thoại di động Mastel màu đen Cơ quan điều tra đã chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện B để phục vụ việc truy tố, xét xử.

Tại bản cáo trạng số: 105/CT –VKS ngày 12/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố bị cáo Nguyễn Hoài N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát khẳng định nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật, vì vậy đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo. Về tội danh đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoài N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; về hình phạt, áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoài N từ 15 đến 18 tháng tù.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy: Số ma túy còn lại sau giám định; giao trả lại cho bị cáo số tiền 500.000 đồng; 01 điện thoại di động Mastel màu đen.

Về án phí buộc bị cáo pH chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

Bị cáo Nguyễn Hoài N thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, không có ý kiến tranh luận về tội danh, hình phạt và các vấn đề khác đối với đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo Nguyễn Hoài N: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện B, Viện kiểm sát nhân dân huyện B trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra không có người nào có ý kiến hoặc kD nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Vào khoảng 17 giờ ngày 23/6/2020, Nguyễn Hoài N gặp D và được D cho 01 gói ma túy, đến khoảng 19 giờ cùng ngày, N nhờ Nguyễn Hoàng F chở đến nhà của Triệu Văn T tại thôn 5, xã M, huyện B, tỉnh P để chơi và sử dụng gói ma túy mà D đã cho N trước đó. Đến khoảng 23 giờ 30 phút, tại nhà của T thì bị lực lượng Công an vào kiểm tra và N tự móc ra trong túi quần bên pH của mình 01 gói nylon có chứa chất màu trắng và khai nhận là ma túy đá.

Tinh thể chất màu trắng (ký hiệu M) thu giữ được trên người của N kết luận giám định là Methamphetamine, có khối lượng 0,1541 gam.

Từ phân tích trên Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở khẳng định hành vi của bị cáo Nguyễn Hoài N đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Như vậy, nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Đánh giá tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hại cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, làm mất trật tự trị an tại địa phương; bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; do bị cáo có lối sống buông thả, dẫn đến nghiện ma túy nên mặc dù nhận thức rõ được mọi hành vi liên quan đến ma túy là vi phạm pháp luật, là nguyên nhân có thể gây ra nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác nhưng vẫn cố ý thực hiện.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ Luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Sau khi cân nhắc mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng, Hội đồng xét xử thấy cần xử bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe, giáo dục đối với bị cáo và có tác dụng phòng ngừa chung trong xã hội.

[5] Về vật chứng vụ án: Căn cứ Khoản 1 Điều 47, Khoản 1 Điều 48 Bộ Luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015. Cần tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định đựng trong 01 phong bì niêm phong của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh P. Số tiền 500.000đ và 01 điện thoại Mastel màu xanh đen không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo.

[6] Về án phí: Buộc bị cáo pH chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Đối với người đàn ông tên D cho bị cáo ma túy không xác định được nhân thân lai lịch, không có căn cứ xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét. Đối với F không có sự bàn bạc cùng thực hiện hành vi nên không có căn cứ xử lý.

Quan điểm xử lý vụ án của Đại diện Viện kiển sát tham gia phiên tòa về hình phạt là có căn cứ được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoài N phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoài N 01 ( một) năm 03 ( ba ) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/6/2020.

[2] Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào khoản 1 Điều 47, khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tuyên tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định đựng trong 01 phong bì niêm phong KH 151 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước; trả lại cho bị cáo số tiền 500.000đ và 01 điện thoại di động hiệu Mastel mãu xanh đen.Theo biên bản giao nhận vật chứng số 0009821 ngày 08/11/2020 giữa Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bù Đăng và Công an huyện Bù Đăng.

[3] Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Hoài N phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Quyền kháng cáo bản án: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 02/2021/HSST ngày 12/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:02/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;