TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 02/2021/HS-ST NGÀY 05/01/2021 VỀ TỘI BUÔN LẬU
Ngày 05 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng, mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 143/2020/TLST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 163/2020/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:
Hồ Thế C, giới tính: Nam; sinh năm 1988 tại Khánh Hòa; ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ dân phố T 1, thị trấn C, huyện C, tỉnh K; Nghề nghiệp: Phó Giám đốc Công ty Cổ phần thương mại xuất nhập khẩu VP; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Văn Đ, sinh năm 1952 (đã chết), con bà Lưu Thị Thanh T, sinh năm 1954; chưa có vợ; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ ngày 04/10/2020, chuyển tạm giam ngày 06/10/2020. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn M Việt Nam; Địa chỉ: số 15 đường HD, phường MK, quận HB, thành phố HP; Người đại diện: Ông Lưu Văn H - Giám đốc Chi nhánh Công ty trách nhiệm hữu hạn M Việt Nam tại HP. Vắng mặt.
+ Công ty Cổ phần thương mại và vận tải TX; Địa chỉ: Số 162 đường CV, phường ĐH, quận HA, thành phố HP; Người đại diện: Ông Nguyễn Trung T - Giám đốc. Vắng mặt.
- Người làm chứng:
+ Bà Phạm Thị M. Vắng mặt.
+ Ông Trần Tiến Kh. Vắng mặt.
+ Bà Nguyễn Thị Th.Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Công ty Cổ phần Thương mại và Xuất nhập khẩu VP (sau đây gọi là Công ty VP), có trụ sở tại số 47 đường số 9, phường TH, quận 7, thành phố Hồ Chí Minh. Đại diện theo pháp luật của Công ty là Chủ tịch Hội đồng quản trị - chịHồ Thị V, sinh năm 1994, trú tại số 1580 đường V K, Phường 6, Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh. Cổ đông sáng lập Công ty là Hồ Thế C, anh trai chị V và bà Lưu Thị Thanh T, sinh năm 1954, mẹ ruột chị V. Tuy nhiên, trên thực tế chị V và bà Tâm chỉ đứng tên, sở hữu và điều hành mọi hoạt động kinh doanh của công ty do Hồ Thế C với chức danh Phó Giám đốc điều hành.
Khoảng tháng 6 năm 2017, Hồ Thế C trực tiếp trao đổi, thỏa thuận với Faniyi Folorunsho Mathew (quốc tịch Nigeria), đại diện của Công ty Excel Gems Resources (sau đây gọi là Công ty Excel) có trụ sở tại Nigeria để nhập khẩu gỗ Giáng hương Tây Phi về Việt Nam. Theo đó, Công ty VP và Công ty Excel ký hợp đồng ngày 14/9/2017 thỏa thuận mua bán gỗ giáng hương Tây Phi với giá 12.500 USD-14.000USD/container gỗ.
Do gỗ giáng hương Tây Phi (có tên khoa học là Pterocarpus Erinaceus) nằm trong danh mục quản lý của Cơ quan Cites nên để làm thủ tục nhập khẩu, Công ty VP đã làm đơn đề nghị Cơ quan CITES Việt Nam tại phía Nam cấp Giấy phép Cites cho lô hàng gỗ giáng hương Tây Phi đóng trong 02 container số TRLU9138750 và MRKU7084795. Ngày 10/01/2018, Đại diện CITES Việt Nam tại phía Nam cấp Giấy phép Cites nhập khẩu số 18VN0097S/CT-KL (viết tắt là Giấy phép Cites số 18) có thời hạn đến 19/05/2018 cho lô hàng trên. Khi lô hàng trên cập cảng Hải Phòng, giá gỗ trên thị trường giảm mạnh nên để kinh doanh có lãi, Hồ Thế C thỏa thuận lại với Mathew về giá trị lô hàng. Ngày 10/6/2018, Hồ Thế C gặp trực tiếp Mathew tại Hải Phòng để ký lại Hợp đồng mới giữa Công ty VP và Công ty Excel với giá trị hàng hóa đóng trong 02 container TRLU9138750 và MRKU7084795 là 5.000 USD. Để tránh việc lô hàng bị tham vấn về giá, Hồ Thế C tự cắt dán, sửa chữa giá trị lô hàng trên Hóa đơn thương mại (Commercial Invoice) và Phiếu đóng gói (Packing List) thành 9.400 USD.
Tại thời điểm này, Giấy phép Cites số 18 đã hết hạn nên Hồ Thế C tự sửa chữa thời hạn của giấy phép từ 19/05/2018 thành 19/06/2018 bằng cách: C dùng dao lam cạo trắng số “05” tại dòng “19/05/2018” trong mục thời hạn của Giấy phép, sau đó thực hiện căn chỉnh nhiều lần trên phần mềm Word và máy in để in số “06” khớp vào chỗ C đã dùng dao lam cạo trắng trước đó. Ngoài ra, C còn tự sửa thời hạn trên Giấy phép Cites của nước xuất khẩu. Do thời hạn trên Giấy phép Cites của nước xuất khẩu là ký tự viết tay nên C dùng bút thêm một nét vào số 5 để sửa thời hạn của giấy phép thành “19-06-2018”.
Sau khi sửa xong Giấy phép Cites, Hồ Thế C chuyển cho chị Phạm Thị M là nhân viên Công ty Cổ phần thương mại và vận tải TX (viết tắt là Công ty TX), có trụ sở tại số 162 đường C, quận HA, thành phố H để làm dịch vụ nhập khẩu cho lô hàng. Việc giao dịch giữa Công ty VP và Công ty TX không ký kết hợp đồng.
Ngày 15/6/2018, Công ty VP thông qua Công ty TX mở tờ khai số 102064381420 tại Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Hải Phòng khu vực III thuộc Cục Hải quan Hải Phòng để nhập khẩu lô hàng gỗ giáng hương Tây Phi được đóng trong 02 container TRLU9138750 và MRKU7084795. Hàng hóa theo khai báo là gỗ giáng hương Tây Phi, trọng lượng 40m3. Trong các ngày 19/6, 22/6 và 28/6/2018, Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Hải Phòng khu vực III phối hợp với Đội kiểm soát hải quan Cục Hải quan Hải Phòng và Cục Điều tra chống buôn lậu Tổng cục Hải quan tiến hành kiểm tra thực tế lô hàng. Kết quả kiểm tra thực tế hàng hóa trong 02 container trên là gỗ giáng hương Tây phi dạng đẽo vuông thô, trọng lượng là 35,12m3; Hóa đơn thương mại và Phiếu đóng gói có dấu hiệu sửa chữa. Qua xác minh phát hiện Giấy phép Cites số 18 do Đại diện CITES Việt Nam tại phía Nam cấp cho lô hàng trên đã hết hiệu lực.
Tiến hành trưng cầu giám định Giấy phép Cites số 18VN0097S/CT-KL, tại Kết luận giám định số 1832 ngày 06/12/2018 của Viên Khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Các số “19/06/2018” tại mục “2. Valid until/ Có giá trị đến” đã bị tẩy xóa, không phải là nội dung nguyên thủy.
Xác minh tại Công ty Cổ phần thương mại và vận tải TX: Khoảng đầu tháng 6 năm 2018, Hồ Thế C - Phó Giám đốc Công ty VP đã cung cấp các hồ sơ giấy tờ liên quan cho chị Phạm Thị M, nhân viên Phòng kinh doanh của Công ty TX để làm các thủ tục nhập khẩu lô hàng gỗ nêu trên thuộc vận đơn số 76990583A do hãng tàu M làm đại lý vận tải . Công ty TX được Hồ Thế C cung cấp mật khẩu truy cập vào phần mềm khai báo hải quan của Công ty VP để truyền tờ khai hải quan theo hồ sơ do Hồ Thế C cung cấp và nộp hồ sơ hàng hoá cho Cơ quan hải quan , tạm ứng tiền để thanh toán các chi phí với hãng tàu để lấy hàng và nộp hồ sơ để làm thủ tục khai báo hải quan.
Xác minh tai Đại diện CITES Việt Nam phía Nam: Tại thời điểm mở tờ khai hải quan số 102064381420 ngày 15/6/2018, thì lô hàng không đủ điều kiện nhập khẩu do Giấy phép Cites số 18VN0097S/CT-KL đã hết hiệu lực . Trước khi Giấy phép Cites trên hết hiệu lực , Công ty VP không hoàn trả lại Giấy phép đã được cấp, không làm thủ tục đề nghị cấp đổi hoặc gia hạn thời hạn của Giấy phép Cites.
Kết luận định giá tài sản số 37 ngày 22/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Hải Phòng xác định giá trị của lô hàng 35,12m3 gỗ giáng hương Tây Phi tại thời điểm tháng 06 năm 2018 là 561.920.000 đồng (Năm trăm sáu mươi mốt triệu chín trăm hai mươi nghìn đồng).
Quá trình điều tra, Hồ Thế C bỏ trốn, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định truy nã bị can. Ngày 04/10/2020, Cơ quan điều tra bắt truy nã và áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với Hồ Thế C.
Đối với Hồ Thị V và Lưu Thị Thanh T chỉ là người đứng tên thành lập Công ty VP, mọi hoạt động của công ty đều do Hồ Thế C thực hiện; Đối với Phạm Thị M chỉ là nhân viên của Công ty TX làm dịch vụ nhập khẩu hàng thuê cho Công ty VP, M không biết việc C sửa chữa Giấy phép Cites và các giấy tờ khác. Do đó, không có căn cứ xác định V, T, M đồng phạm với Hồ Thế C về hành vi Buôn lậu.
Đối với Faniyi Folorunsho Mathew , Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hải Phòng đã có Yêu cầu tương trợ tư pháp gửi đến Đại sứ quán Nigeria để xác định nhân thân lai lịch và triệu tập làm việc với Matthew . Tuy nhiên đến nay chưa có kết quả trả lời.
Tại bản Cáo trạng số 136/CT-VKS-P3ngày 05/11/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng truy tố Hồ Thế C về tội Buôn lậu theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 188 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Hồ Thế C về tội danh như nội dung bản Cáo trạng, cụ thể: Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, gây tác động xấu đến sự phát triển của kinh tế - xã hội, ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hóa, nên cần xử phạt bị cáo với hình phạt nghiêm, đúng mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và hiệu quả phòng ngừa tội phạm chung, góp phần đẩy lùi tình trạng buôn lậu tại Việt Nam. Tuy nhiên, xét tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải, hồ sơ nhập khẩu của bị cáo ban đầu đã đủ thủ tục và được cấp giấy phép cites theo quy định của pháp luật, nhưng do quá hạn giấy phép cites, nhận thức pháp luật còn hạn chế, bị cáo đã sửa thời hạn trên giấy phép dẫn đến phạm tội, nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, đồng thời áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự xét xử bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.
Về hình phạt:
Hình phạt chính: Áp dụng khoản 3 Điều 188 BLHS; điểm s Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử: Xử phạt bị cáo Hồ Thế C từ 5 năm đến 6 năm tù.
Hình phạt bổ sung: Áp dụng Khoản 5 Điều 188 BLHS, đề nghị Hội đồng xét xử phạt bị cáo 20.000.000 đến 30.000.000 đồng.
Về vật chứng:Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra thu giữ 35,12m3 gỗ Giáng hương Tây Phi được đóng trong 03 container; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7 của Hồ Thế C. Xác định: 35,12m3 gỗ giáng hương Tây Phi, đây là vật chứng của vụ án, cần tịch thu sung quỹ nhà nước; đối với điện thoại di động, quá trình điều tra xác định không liên quan đến vụ án, không sử dụng vào việc phạm tội, do đó cần trả lại cho bị cáo; Ngoài ra cần trả Công ty TX và hãng tàu 03 vỏ container đựng số gỗ thu giữ theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo Hồ Thế C khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung nêu trên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
- Về tố tụng:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều đã thực hiện đúng quy định pháp luật.
- Về tội danh:
[2] Xét thấy,lời khai nhận của bị cáo Hồ Thế Ctại phiên tòa về hành vi tự sửa chữa Giây phep Cites nhập khẩu số 18VN0097S/CT-KLdo Đại diện CITES Việt Nam tại phía Nam cấp đã hết hiệu lực ,cụ thể là tự sửa chữa thời hạn của giấy phép từ 19/05/2018 thành 19/06/2018 để nhằm mục đích thông quan, nhập khẩu khối lượng 35,12m3 vào nội địa như nội dung nêu trên là phù hợp với lời khai của chính bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng; phù hợp với Kết luận giám định số 1832 ngày 06/12/2018 của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Các số “19/06/2018” tại mục “2. Valid until/ Có giá trị đến” đã bị tẩy xóa, không phải là nội dung nguyên thủy; phù hợp với kết quả xác minh tại các cơ quan hữu quan; phù hợp với vật chứng thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Tại Kết luận định giá tài sản số 37 ngày 22/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Hải Phòng xác định giá trị của lô hàng 35,12m3 gỗ giáng hương Tây Phi tại thời điểm tháng 06 năm 2018 là 561.920.000 đồng (Năm trăm sáu mươi mốt triệu chín trăm hai mươi nghìn đồng).
Như vậy, có đủ căn cứ kết luận, bị cáo Hồ Thế C phạm tội Buôn lậu theo quy định tại Điều 188 Bộ luật Hình sự như Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải phòng đã truy tố.
[3] Về tình tiết định khung hình phạt: Với trị giá số hàng hóa bị cáo buôn lậu theo kết luận định giá là 561.920.000 đồng (Năm trăm sáu mươi mốt triệu chín trăm hai mươi nghìn đồng), bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo điểm a khoản 3 Điều 188 Bộ luật Hình sự.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.
[5] Về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo: Bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu; bị cáo hiện đang nuôi mẹ già mang bệnh nặng, anh trai bị khuyết tật không có khả năng lao động; bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cần áp dụng khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
- Về hình phạt:
[6] Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, bị cáo không có ý thức thực hiện hành vi buôn lậu từ đầu, chỉ đến khi Giấy phép nhập khẩu hết hạn, bị cáo mới thực hiện hành vi sửa chữa thời hạn trên giấy phép, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội phạm nhưng nên xem xét giảm nhẹ hơn các trường hợp phạm tội Buôn lậu tương tự nhưng có ý thức phạm tội từ đầu để đảm bảo tính công bằng. Từ những căn cứ trên,Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt bị truy tố cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
Ngoài hình phạt chính, cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 188 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo để sung quỹ Nhà nước.
- Về xử lý vật chứng: Vật chứng hiện con thu giữ gồm:35,12m3 Gỗ giáng hương Tây Phi được đóng trong 03 container; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7 của Hồ Thế C. Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự được xử lý như sau:
Đối với 35,12m3 gỗ Giáng hương Tây Phi, đây là hàng hóa bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu, phát mại sung quỹ Nhà nước.
Đối với điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7 thu giữ của Hồ Thế C không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.
Đối với 03 vỏ container đựng số gỗ bị thu giữ, cụ thể: 02 container số TRL9138750, số MRKU7084795 theo Packing List (Phiếu đóng gói hàng hóa) số 1002-VP/EXC ngày 25/03/2018, B/L (Vận đơn) số 76990583A ngày 20/9/2017 và theo Văn bản số 151020/CV-MSK-001 ngày 15/10/2020 của Chi nhánh Công ty trách nhiệm hữu hạn M Việt Nam tại Hải Phòng đề nghị xin 02 vỏ container về phục vụ, sản xuất kinh doanh; 01 container số GATU0438744 là do sau khi Cơ quan Hải quan kiểm tra toàn bộ lượng hàng gỗ được đóng lại vào 02 container số TRL9138750, số MRKU7084795 số lượng hàng thừa ra Công ty T Xcho Công ty VP mượn để đóng hàng và được niêm phong chì Hải quan, ngày 01/10/2020 Công ty T X có Văn bản số 11-CV/TX đề nghị xin lại vỏ container để trả lại cho hãng tàu.
Xác định 03 vỏ container trên không có liên quan đến vụ án nên cần trả lại cho Công ty trách nhiệm hữu hạn M Việt Nam tại Hải Phòng và Công ty TX.
- Về án phí:
[7] Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ điểm a khoản 3, khoản 5 Điều 188; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điêu 51; Điều 38; Điều 54 Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Bị cáo Hồ Thế C: 05 (Năm) năm tù về tội “Buôn lậu”. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ ngày 04/10/2020.
Phạt tiền bị cáo 30.000.000 để sung quỹ Nhà nước.
- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 35,12m3 gỗ Giáng hương Tây phi được đóng trong 03 container gồm: Container số TRLU9138750, chì Hải quan số H/19.037.6189; Container số MRKU7084795, chì Hải quan số H/19.037.6190; Container số GATU4038744, chì Hải quan số H/19.0376191 (Vật chứng trên có đặc điểm theo Biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 08 giờ 30 phút ngày 11/11/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hải Phòng với Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng tại Cảng Vip Green Port).
Trả lại bị cáo Hồ Thế C: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7 đã qua sử dụng, mầu ghi xám hồng IMEIS53317/09/036434/1 IMEI353318/09/036934/9 SIN R58J 96FA85K (Vật chứng trên có đặc điểm theo Biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 15 giờ 00 phút ngày 11/11/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hải Phòng với Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng).
Trả lại Công ty trách nhiệm hữu hạn M Việt Nam: 02 vỏ container số TRLU9138750 và số MRKU7084795.
Trả lại Công ty Cổ phần thương mại và vận tải TX: 01 vỏ container số GATU0438744.
-Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 02/2021/HS-ST ngày 05/01/2021 về tội buôn lậu
Số hiệu: | 02/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/01/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về