Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 26/4/2021 về tranh chấp Xin ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC KẠN, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 02/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/4/2021 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN, NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN

Trong ngày 26 tháng 4 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn xét xử công khai vụ án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số: 72/2021/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 3 năm 2021 về tranh chấp “Xin ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:

02/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nông Thị N, sinh năm 1990;

2. Bị đơn: Anh Bùi Xuân K, sinh năm 1983;

Cùng địa chỉ: thôn B, xã D, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn. (Chị N, anh K đều có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng, chị Nông Thị N trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị kết hôn với anh Bùi Xuân K trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã D, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn vào ngày 02/02/2010. Quá trình chung sống những năm đầu vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc; nhưng từ tháng 3 năm 2017 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn do vợ chồng không hợp tính tình, không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống. Mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên vợ chồng chị đã sống ly thân từ đầu năm 2018 cho đến nay, trong thời gian sống ly thân tình cảm vợ chồng không hàn gắn được. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, xin được ly hôn anh Bùi Xuân K.

- Về con chung: Vợ chồng chị có 01 con chung tên là Bùi Minh T sinh ngày 08/11/2011, con chung khỏe mạnh và phát triển bình thường. Khi ly hôn, nguyện vọng của chị sẽ được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung đến khi đủ 18 tuổi và chị không yêu cầu anh K phải cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung, nợ chung:

+ Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết;

+ Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

*Bị đơn anh Bùi Xuân K trong quá trình tố tụng trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Về thời điểm kết hôn đúng như chị N trình bày, Quá trình chung sống những năm đầu vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc; nhưng từ tháng 3 năm 2017 thì có phát sinh mâu thuẫn trong sinh hoạt cuộc sống hàng ngày, tuy nhiên theo anh đó chỉ là những mâu thuẫn nhỏ. Từ đầu năm 2018, chị N đi làm công nhân ở Bắc Ninh thỉnh thoảng mới về, vợ chồng vẫn thường gặp nhau. Từ khoảng tháng 6 năm 2020 chị N và con tự ý bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở từ đó cho đến nay. Tết năm 2021, anh có đến đón hai mẹ con chị N về ăn tết nhưng chị N cũng không về. Nay chị N xin ly hôn anh không nhất trí, vì anh vẫn còn tình cảm với chị N, nên mong muốn vợ chồng đoàn tụ để cùng nhau nuôi dậy con chung.

- Về con chung: Vợ chồng anh có 01 con chung tên là Bùi Minh T sinh ngày 08/11/2011, con chung khỏe mạnh và phát triển bình thường. Nếu phải ly hôn, nguyện vọng của anh sẽ được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung đến khi đủ 18 tuổi và anh yêu cầu chị N phải cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng là 1.000.000đ (một triệu đồng).

- Về tài sản chung, nợ chung: Đúng như chị N trình bày.

Tại phiên Tòa hôm nay nguyên đơn xin vắng mặt nhưng vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện là xin ly hôn và nuôi con chung sau ly hôn.

*Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng quy định của pháp luật; nguyên đơn và bị đơn vắng mặt nhưng đã có đơn xin giải quyết, xét xử vắng mặt; căn cứ theo quy định tại Điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục giải quyết vụ án theo luật định.

- Về nội dung: Căn cứ vào Khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nông Thị N về việc xin ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn; Về án phí: Chị Nông Thị N phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Chị Nông Thị N có đơn đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn giải quyết vụ việc xin ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn.

Chị Nông Thị N và anh Bùi Xuân K đều có đơn xin xét xử vắng mặt. Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

[2]. Về nội dung: Chị Nông Thị N và anh Bùi Xuân K kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã D, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn vào ngày 02/02/2010. Đây là hôn nhân tự nguyện, không vi phạm các điều cấm kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Do đó, hôn nhân của chị N và anh K là hợp pháp. Trong quá trình chung sống, giữa hai vợ chồng thời gian đầu hòa thuận, hạnh phúc, nhưng từ tháng 3 năm 2017 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm, không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống. Mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chị N đã bỏ về nhà cha mẹ đẻ ở từ đầu năm 2018 cho đến nay, trong thời gian sống ly thân tình cảm vợ chồng không hàn gắn được, không còn quan tâm đến nhau nữa.

Chị N làm đơn xin ly hôn anh K vì thấy rằng quá trình chung sống vợ chồng không có hạnh phúc do không tìm được tiếng nói chung, không có sự quan tâm thấu hiểu nhau. Từ đầu năm 2018 đến nay vợ chồng đã sống ly thân mỗi người một nơi không còn quan tâm chăm sóc và liên lạc gì với nhau. Qua xác minh tại địa phương về tình trạng hôn nhân, cuộc sống vợ chồng giữa chị N và anh K cho thấy: Cuộc sống hôn nhân giữa anh K và chị N thời gian đầu hạnh phúc, nhưng về sau có xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn chủ yếu do vợ chồng bất đồng quan điểm, không tôn trọng ý kiến của nhau nên không còn quan tâm đến nhau nữa, chị N đã bỏ về nhà cha mẹ đẻ ở thôn Q, xã D, Thành phố B, tỉnh Bắc Kạn sinh sống từ lâu và vợ chồng đã sống ly thân, không còn liên lạc và bỏ mặc nhau trong cuộc sống, anh K cũng không có biện pháp gì để cải thiện quan hệ vợ chồng. Điều đó cho thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị N và anh K đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị N.

[3]. Về con chung: Vợ chồng chị N và anh K có 01 con chung tên là Bùi Minh T sinh ngày 08/11/2011, con chung khỏe mạnh và phát triển bình thường. Từ khi ly thân đến nay, cháu T sống trực tiếp với chị N. Khi ly hôn, anh K, chị N đều có nguyện vọng được nuôi con chung. Xét thấy, con chung còn nhỏ, đang sống ổn định với chị N, cháu phát triển tốt cả về thể chất lẫn tinh thần; mặt khác, hiện nay thu nhập của chị N là 7.000.000 đồng (bảy triệu đồng)/tháng, cũng đủ điều kiện nuôi con chung và phù hợp với nguyện vọng của con chung là muốn được ở với chị N. Do đó cần tiếp tục giao con chung cho chị N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là phù hợp.

[4]. Về yêu cầu cấp dưỡng: Chị N không yêu cầu nên không xét.

[5]. Về tài sản chung và nợ chung:

- Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[6] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án là phù hợp với quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.

[7] Về án phí: Chị Nông Thị N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ: Khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 228; Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/NQUBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nông Thị N đối với anh Bùi Xuân K. Chị Nông Thị N được ly hôn với anh Bùi Xuân K.

2. Về con chung: Giao con chung tên là Bùi Minh T sinh ngày 08/11/2011, con chung khỏe mạnh và phát triển bình thường cho chị Nông Thị N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến khi con chung đủ 18 tuổi (phù hợp với nguyện vọng của con chung).

Người không trực tiếp nuôi con chung có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về cấp dưỡng: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về tài sản chung, nợ chung:

- Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

5. Về án phí: Chị Nông Thị N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0000297 ngày 01/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bắc Kạn. Chị Nông Thị N đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Chị Nông Thị N và anh Bùi Xuân K có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 26/4/2021 về tranh chấp Xin ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn

Số hiệu:02/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Kạn - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;