Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 06/01/2021 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THUỶ, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 02/2021/HNGĐ-ST NGÀY 06/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 06 tháng 01 năm 2021 tại Toà án nhân dân quận Bình Thuỷ, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 291/2020/TLST – HNGĐ ngày 12 tháng 8 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 588/2020/QĐXXST – HNGĐ ngày 18 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Tô Văn M, sinh năm 1962 Địa chỉ: phường T, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ.

2. Bị đơn: Bà Lê Thị C, sinh năm 1966 Địa chỉ: phường T, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ. Các đương sự có mặt tại phiên toà;

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn ông Tô Văn M trình bày:

Ông và bà Lê Thị C tự nguyện tiến tới hôn nhân và tổ chức đám cưới năm 1984, đến năm 1994 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ. Quá trình chung sống ông bà có 02 con chung tên Tô Thanh T (nữ), sinh ngày 16/12/1987 và Tô Tấn T (nam) sinh ngày 24/10/1984. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng sau đó thì phát sinh nhiều mâu thuẫn do vợ chồng không có tiếng nói chung, bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên cãi vã, tình cảm dần phai nhạt, mặc dù hai bên cũng tạo điều kiện hàn gắn tình cảm nhưng không thành. Ông M nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông yêu cầu được ly hôn với bà Lê Thị C.

Về con chung: hai con đã trưởng thành nên không yêu cầu toà án giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn bà Lê Thị C trình bày: bà thống nhất với lời trình bày của ông M về quan hệ hôn nhân, con chung. Bà đồng ý ly hôn với ông M. Về tài sản chung: bà cho rằng bà và ông M không có tài sản chung; vào năm 1987 ba bà là ông Lê Văn Bê phần đất bây giờ bà đang quản lý theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00029 cấp ngày 07/9/1993 do ông Tô Văn M đứng tên; về phần căn nhà trên đất do nhà nước cấp nhà tình thương cho ông M năm 2004, căn nhà đã xuống cấp ông bà có sửa chữa tu bổ nên bà yêu cầu Ca ½ căn nhà này để bà và các con ở. Về nợ chung: không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại buổi hoà giải ngày 18/12/2020 bà C cho rằng bà không đồng ý ly hôn với ông M vì ông M chưa làm thủ tục sang tên tài sản cho bà, khi nào ông M sang tên tài sản cho bà xong thì bà mới đồng ý ly hôn. Về con chung đã trưởng thành. Về tài sản chung: bà không yêu cầu toà án giải quyết vì không có tiền nộp tạm ứng án phí và cũng chưa trích lục hồ sơ đối với tài sản chung. Về nợ chung: không yêu cầu giải quyết.

Tại phiên toà hôm nay, ông M vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Bị đơn bà Lê Thị C thì cho rằng khi nào ông M sang tên nhà đất qua cho bà thì bà mới đồng ý ly hôn, bà không yêu cầu tòa án Ca tài sản chung do bà không có điều kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: vụ kiện đã được thụ lý theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

[2] Xét về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Theo đơn khởi kiện ông Tô Văn M yêu cầu được ly hôn với bà Lê Thị C. Hội đồng xét xử thấy rằng tranh chấp giữa các bên đương sự là tranh chấp về ly hôn giữa công dân với công dân thuộc ngành Luật hôn nhân và gia đình điều chỉnh và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Bình Thủy theo khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

[3] Xét về quan hệ hôn nhân: ông M và bà C tự nguyện tiến tới hôn nhân có đăng ký kết hôn nên xem đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Mâu thuẫn phát sinh do vợ chồng có sự bất đồng quan điểm sống dẫn đến mâu thuẫn không thể hàn gắn được mặc dù hai đã tạo điều kiện hòa giải nhưng vẫn không thành, nên yêu cầu xin ly hôn của ông M là có cơ sở chấp nhận.

[4] Xét lời trình bày của bị đơn bà Lê Thị C, Hội đồng xét xử thấy rằng lý do bà C không đồng ý ly hôn là do ông M chưa làm thủ tục sang tên tài sản cho bà chứ không phải bà còn tình cảm với ông M, cũng không có yêu cầu toà án hoà giải đoàn tụ, bà cho rằng khi nào ông M sang tên tài sản cho bà xong thì bà mới đồng ý ly hôn, chứng tỏ quan hệ hôn nhân giữa bà và ông M đã thực sự rạn nứt, đời sống chung không thể kéo dài, do đó yêu cầu này của bà C là chưa có cơ sở.

[5] Về con chung: đã trưởng thành nên không xem xét giải quyết.

[6] Về tài sản chung: toà án đã cho bà C thời gian để nộp đơn yêu cầu chia tài sản nhưng bà không nộp và tại buổi hoà giải ngày 18/12/2020 cũng như tại phiên tòa bà C trình bày không yêu cầu chia tài sản nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về nợ chung: không yêu cầu toà án giải quyết.

[8] Về án phí: nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và Điều 39; Điều 147 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Về quan hệ hôn nhân: ông Tô Văn M được ly hôn với bà Lê Thị C.

Về con chung: đã trưởng thành nên không xem xét giải quyết.

Về tài sản chung: các đương sự không yêu cầu chia tài sản nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về nợ chung: không yêu cầu toà án giải quyết.

Về án phí: ông Tô Văn M phải nộp 300.000đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Chuyển tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 004634 ngày 04/8/2020 thành án phí.

Các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 06/01/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:02/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thuỷ - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;