Bản án 02/2021/DS-ST ngày 01/02/2021 về tranh chấp đòi tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦN GIỜ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 02/2021/DS-ST NGÀY 01/02/2021 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI TÀI SẢN

Ngày 01 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 146/2020/TLST- DS ngày 05 tháng 11 năm 2020 về việc “Tranh chấp đòi tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 53/2020/QĐXXST-DS ngày 2 3 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2021/QĐST-DS ngày 11 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Đặng Thị Thùy L, sinh năm:1981 Địa chỉ: ấp Tân Đ, xã Lý N, huyện Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị đơn: Bà Dương Thị Hoài H, sinh năm: 1983 Địa chỉ: Ấp Lý Thái B, xã Lý N, huyện Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh.Tại phiên tòa: Bà L (Có mặt); bà H (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo hồ sơ vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn bà Đặng Thị Thùy L trình bày: Vào ngày 03 tháng 10 năm 2017, bà Dương Thị Hoài H có mượn của bà Đặng Thị Thùy L số tiền là 600.000.000 (Sáu trăm triệu) đồng để đáo hạn Ngân hàng; bà H đã tự mình viết giấy mượn tiền và ký nhận có mượn bà L số tiền 600.000.000 (Sáu trăm triệu) đồng, với số tiền bà H mượn của bà L không liên quan gì đến chồng bà H, đồng thời tiền của bà L cho bà H mượn là tiền của cá nhân bà L không liên quan đến ai; tại thời điểm mượn tiền bà H có hứa là sau khi đáo hạn Ngân hàng xong sẽ hoàn trả toàn bộ số tiền mượn 600.000.000 đồng cho bà Linh.

Tuy nhiên, đợi mãi thời gian sau nhưng bà H không trả lại số tiền. Mặc dù bà L đã nhiều lần yêu cầu bà H trả tiền nhưng bà H cứ hứa hẹn lần này đến lần khác; do là chỗ có quan hệ họ hàng và cũng ở gần nhà nên bà L đã tạo điều kiện cho bà H thời gian trả tiền. Trong thời gian gần đây, bà L nhận thấy bà H không có thiện chí trả lại số tiền mượn, thường xuyên trốn tránh bà L nên bà L gửi đơn yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Dương Thị Hoài H trả số tiền đã mượn là 600.000.000 đồng (Sáu trăm triệu đồng), bà L không yêu cầu giải quyết về lãi suất.

Đối với bị đơn bà Dương Thị Hoài H: Bà Dương Thị Hoài H đã được Tòa án nhân dân huyện Cần Giờ tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa nhưng bà H không có ý kiến phản hồi liên quan đến nội dung vụ án, đồng thời vắng mặt trong tất cả các lần Tòa án triệu tập không có lý do.

Tòa án đã tiến hành xác minh tình trạng cư trú của bà H, theo kết quả xác minh của Công an xã Lý Nhơn, huyện Cần Giờ, TP. Hồ Chí Minh thì: Bà Dương Thị Hoài H, sinh năm: 1983 có hộ khẩu thường trú tại: Ấp Lý Thái Bửu, xã Lý Nhơn, huyện Cần Giờ, TP. Hồ Chí Minh, nhưng hiện nay bà H không có mặt tại địa pH, không biết đi đâu.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu:

- Ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Tòa án nhân dân huyện Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý và giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 35; Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Vụ án được giải quyết đúng thời hạn theo quy định tại Điều 203 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân thủ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự: Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định tại các Điều 70, 71 và Điều 234 của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định tại các Điều 70, 72 và Điều 234 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Việc bị đơn bà H có địa chỉ thường trú tại ấp Lý Thái Bửu, xã Lý Nhơn, huyện Cần Giờ, trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ để xét xử là đúng theo quy định của pháp luật.

Quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như lời khai của các đương sự tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đặng Thị Thùy L buộc bà Dương Thị Hoài H trả cho bà L số tiền đã mượn là 600.000.000 đồng (Sáu trăm triệu đồng).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến phát biểu của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Cần Giờ, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Tại phiên tòa bị đơn bà Dương Thị Hoài H vắng mặt, Hội động xét xử thấy rằng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn bà H. Căn cứ vào quy định tại Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử trong trường hợp vắng mặt bị đơn tại phiên tòa là phù hợp với qui định pháp luật.

[2]. Về xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà L cho bà H mượn số tiền 600.000.000đồng (Sáu trăm triệu đồng) không có yêu cầu về lãi suất (Có viết giấy mượn tiền, giấy mượn tiền có chữ ký xác nhận của bà H); số tiền trên hiện nay bà H đang chiếm giữ, nhiều lần bà L yêu cầu bà H trả tiền nhưng bà H không trả, lại còn trốn tránh bà L nên bà L khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà H trả lại số tiền là 600.000.000đồng (Sáu trăm triệu đồng). Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bà H, tuy nhiên bà H không đến làm việc, nên Tòa án đã tiến hành xác minh tại Công an xã Lý Nhơn, huyện Cần Giờ, kết quả xác nhận bà H có hộ khẩu thường trú tại ấp Lý Thái Bửu, xã Lý Nhơn, huyện Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó có đủ căn cứ để xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án này là “Tranh chấp đòi lại tài sản”, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cần Giờ, theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 3 Điều 36, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 166 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

[3]. Về tư cách tham gia tố tụng của các đương sự:

Căn cứ vào Điều 68 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì:

- Bà Đặng Thị Thùy L tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn.

- Bà Dương Thị Hoài H tham gia tố tụng với tư cách là bị đơn.

[4]. Về nội dung vụ án: Theo hồ sơ vụ án và tại phiên tòa bà L vẫn giữ nguyên yêu cầu buộc bà H trả lại cho bà số tiền là 600.000.000 đồng (Sáu trăm triệu đồng), theo giấy mượn tiền do bà H tự viết và ký tên vào ngày 03/10/2017 đã thừa nhận có mượn của bà Đặng Thị Thùy L số tiền là 600.000.000 đồng, mặc dù bà L có nhiều lần liên hệ bà H để trả tiền nhưng bà H cứ hứa hẹn, do có quan hệ họ hàng nên bà L đã tạo điều kiện cho bà H có thời gian để trả nợ; thời gian qua bà H thường xuyên trốn tránh nghĩa vụ để trả nợ cho bà Linh, nhận thấy bà H không có thiện chí trả tiền nên bà L đã khởi kiện yêu cầu buộc bà H trả số tiền 600.000.000 đồng (Sáu trăm triệu đồng). Bà L trình bày rằng việc số tiền cho bà H mượn là tiền của cá nhân bà L không liên quan đến ai, đồng thời khi bà H cho bà L mượn tiền thì không có liên quan gì đến chồng bà H.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, Giấy triệu tập, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa cho bà Dương Thị Hoài H. Tuy nhiên đến nay bà H không có ý kiến phản hồi liên quan đến nội dung vụ án, đồng thời vắng mặt trong tất cả các lần Tòa án triệu tập không có lý do.

Từ lập luận trên Hội đồng xét xử xét thấy: Theo chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, và những lần Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho thấy bà H đã biết và phải biết nghĩa vụ của mình đối với việc mượn tiền của bà L nhưng bà vẫn trốn tránh nghĩa vụ trả tiền cho bà Linh, không có ý kiến phản hồi nào cho Tòa án, điều đó đã cho thấy bà H đã bỏ mặc không có thiện chí hòa giải, đã thừa nhận có mượn số tiền 600.000.000đồng của bà Linh, cho nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đặng Thị Thùy L buộc bà H trả lại cho bà L số tiền là 600.000.000 đồng (Sáu trăm triệu đồng).

[5]. Về án phí Dân sự sơ thẩm:

Do yêu cầu của nguyên đơn bà Đặng Thị Thùy L được Hội đồng xét xử chấp nhận nên bị đơn bà Dương Thị Hoài H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[6]. Về kháng cáo:

Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 3 Điều 144; các Điều 147, 228, 271 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Áp dụng Điều 166, Điều 357 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Áp dụng vào khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

- Áp dụng vào các Điều 2, 6, 7, 9, 30 Luật Thi hành án dân sự.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Đặng Thị Thùy L.

- Buộc bà Dương Thị Hoài H phải trả cho bà Đặng Thị Thùy L số tiền là 600.000.000 đồng (Sáu trăm triệu đồng) ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật. Thực hiện tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, người phải thi hành án chưa thi hành xong cho người được thi hành án thì người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi suất theo quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về án phí: Bà Dương Thị Hoài H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 28.000.000 (Hai mươi tám triệu) đồng. Bà Đặng Thị Thùy L không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả lại cho bà L số tiền 14.000.000 (Mười bốn triệu) đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai số 07154 ngày 05 tháng 11 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh.

Thực hiện về án phí tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

3. Quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án.

4. Quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu thi hành án:

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

266
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 02/2021/DS-ST ngày 01/02/2021 về tranh chấp đòi tài sản

Số hiệu:02/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cần Giờ - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 01/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;