Bản án 02/2020/HS-ST ngày 06/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MS - TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 02/2020/HS-ST NGÀY 06/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện MS, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 04/2020/TLST-HS ngày 12 tháng 10 năm 2020. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02 /2020/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Lò Văn K. Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam. Sinh năm 1990. Nơi sinh: Xã CS, huyện MS, tỉnh Sơn La .

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: Bản NBL, xã CS, huyện MS, tỉnh Sơn La. Trình độ học vấn: 8/12. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Thái. Tôn giáo: Không. Chức vụ ĐTĐP: Không. Con ông: Lò Văn Ư, sinh năm 1967 và bà Lò Thị P, sinh năm 1970. Bị cáo có vợ là Lò Thị H, sinh năm 1995. Bị cáo có 01 con sinh năm 2016.

Tiền án: Không. Tiền sự: Không.

Về nhân thân: Tại bản án số 11/2010/HS-ST ngày 17/11/2010 của Tòa án nhân dân huyện MS, tỉnh Sơn La xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 12 tháng, thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án về tội Trộm cắp tài sản, đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/7/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện MS. Có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Lò Văn Ư, sinh năm 1967. Trú quán: Bản NBL, xã CS, huyện MS, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 15 giờ 50 phút ngày 01/7/2020, tổ công tác Công an xã CS, huyện MS, tỉnh Sơn La, làm nhiệm vụ tại khu vực dốc Pú Luông thuộc bản NBL, xã CS, huyện MS phát hiện Lò Văn K điều khiển xe mô tô hiệu SYM biển kiểm soát 24K8- 8183 có biểu hiện tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác kiểm tra bị cáo tự giác lấy 01 ni lon màu xanh trong chứa 02 viên nén màu hồng trên bề mặt mỗi viên có ký tự “WY” nghi là ma túy tổng hợp; 01gói nilon màu hồng trong chứa chất bột màu trắng nghi là Heroine. Bị cáo Lò Văn K khai nhận các gói vật chứng bị thu giữ là Heroine và Hồng phiến của K, mục đích tàng trữ để sử dụng. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với K.

Quá trình điều tra Lò Văn K khai nhận:

Khong 14 giờ 30 ngày 01/7/2020, bị cáo Lò Văn K điều khiển xe mô tô nhãn hiệu SYM biển kiểm soát 24 K8-8183 từ nhà ở đến bản SL 1, xã CC, huyện MS tìm mua ma túy để sử dụng (K nghe nói ở bản SL 1, xã CC có người tên là K1 hay bán ma túy). Khi đến bản SL, K găp một người đàn ông (không biết tên, địa chỉ) K hỏi đến nhà K1. Tại đây K gặp môt người đàn ông, K nghĩ là K1 và K hỏi mua 50.000VNĐ Heroine và100.000 VNĐ Hồng phiến và đưa tiền, người đàn ông đó nhận tiền và đi về phía sau nhà khoảng 05 phút sau quay lại đưa cho K 01 gói nilon màu hồng bên trong chứa Heroine, 01 gói ni lon màu xanh bên trong chứa 02 viên Hồng phiến. K cất gói hồng phiến vào túi áo ngực bên trái đang mặc và cất giấu gói heroinne trong nắp điện thoại di động VIETTEL cho vào túi áo bên phải đang mặc. Sau đó K điều khiển xe mô tô đi tìm nơi để sử dụng khi K đi đến khu vực bản NBL, xã CS, huyện MS bị phát hiện bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ .

01 gói nilon màu hồng bên trong chứa chất bột màu trắng.

01 ni lon màu xanh trong chứa 02 viên nén màu hồng trên bề mặt mỗi viên có ký tự “WY”.

01 điện thoại di động hiệu VIETTEL vỏ màu đỏ đen (kèm 01 sim điện thoại).

01 xe mô tô nhãn hiệu SYM biển kiểm soát 24 K8-8183.

Ngày 01/7/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện MS phối hợp với Phòng k thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La tiến hành bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng thu giữ của Lò Văn K, lấy mẫu trưng cầu giám định, kết quả.

02 viên nén màu hồng trên bề mặt mỗi viên đều có ký tự “WY” trong túi nilon màu xanh có khối lượng 0,18 gam, lấy 0,18 gam làm mẫu giám định ký hiệu M1.

Bột nén màu trắng trong túi nilon màu hồng có khối lượng 0,02 gam lấy toàn bộ làm mẫu giám định ký hiệu M2.

Tại bản kết luận giám định số 1129/KLMT ngày 03/7/2020 của Phòng k thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận:

“- Mẫu gửi giám định ký hiệu M1 là ma tuý; Loại Methamphetamine. Tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,18 gam.

- Mẫu gửi giám định ký hiệu M2 là ma túy; Loại Heroine. Tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,2 gam.

- Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,18 gam; Loại Methamphetamine và 0,02 gam; Loại Heroine”.

Tại phiên toà, bị cáo Lò Văn K đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

Bản Cáo trạng số: 99/CT-VKSMS ngày 12/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện MS đã truy tố bị cáo Lò Văn K về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Sau khi kết thúc phần thẩm vấn, đại diện Viện kiểm sát trình bày bản luận tội đối với bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): Tuyên bố bị cáo Lò Văn K phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Lò Văn K từ 12 đến 16 tháng tù giam. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy:

- 01 phong bì thư bên trong chứa vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, mảnh nilon màu xanh, màu hồng gói ma túy ban đầu.

- 01 phong bì niêm phong bên trong chứa 0,11 gam Methamphetamine.

Tịch thu sung công qũy nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIETTEL màu đỏ, đen kem theo 01 sim điện thoại.

Trả lai 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM biển kiểm soát 24 K8- 8183 cho gia đình bị cáo Lò Văn K (đại diện gia đình ông Lò Văn Ư bố đẻ của bị cáo).

- Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điều 21, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000VNĐ.

Bị cáo tự bào chữa: Nhất trí với nội dung luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện MS, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện MS, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra, truy tố, và tại phiên tòa hôm nay không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hình phạt: Tại phiên tòa bị cáo Lò Văn K đã khai nhận: Bị cáo là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 01/7/2020, tại khu vực dốc Pú Luông, xã CS, huyện MS, tỉnh Sơn La, Công an huyện MS phát hiện bắt quả tang bị cáo Lò Văn K đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,02 gam Heroine và 0,18 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 16 giờ 00 phút ngày 01/7/2020; biên bản mở niêm phong, cân tịnh, trích rút mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng; phù hợp với kết luận giám định số 1129/KLMT ngày 03/7/2020 của Phòng k thuật hình sự công an tỉnh Sơn La; phù hợp với các biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung đối với bị can và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Qua tranh luận tại phiên tòa không có gì mâu thuẫn và không phát sinh tình tiết, chứng cứ mới.

Như vậy, với việc tàng trữ trái phép 0,02 gam Heroine và 0,18 gam Methamphetamine để sử dụng cho bản thân đã có đầy đủ cơ sở kết luận bị cáo Lò Văn K đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, Viện kiểm sát truy tố và Tòa án xét xử bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai cho bị cáo.

[3] Xét về tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm về hình sự, nhận thức được việc mua, tàng trữ nhằm mục đích sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo đã bất chấp quy định của pháp luật để phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm vào chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội, tiếp tay cho các đối tượng hám lời có cơ hội lưu thông buôn bán ma túy. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm, vì lẽ đó khi lượng hình cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.

[4] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Lò Văn K không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên toà sơ thẩm, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) sẽ được hội đồng xét xử xem xét khi áp dụng hình phạt đối với bị cáo.

Từ những nhận định trên, căn cứ vào tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã xác định: bị cáo là người nghiện ma túy, không có việc làm ổn định, hiện đang sống cùng gia đình, bản thân không có tài sản riêng gì có giá trị. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 phong bì thư bên trong chứa vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, mảnh nilon màu xanh, màu hồng gói ma túy ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên trong chứa 0,11gam gam Methamphetamine là chất nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIETTEL màu đỏ, đen kem theo 01 sim điện thoại bị cáo đã dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung công qu Nhà nước.

Đối với 01 xe máy nhãn hiệu SYM biển kiểm soát 24K8 – 8183 bị cáo đã dùng vào việc phạm tội, Cơ quan điều tra đã thu giữ khi bắt bị cáo Lò văn K. Trong quá trình điều tra cơ quan điều tra đã xác định được chiếc xe mô tô trên là tài sản chung của gia đình bị cáo, bị cáo dùng xe vào việc phạm tội, gia đình bị cáo không biết, nay ông Lò Văn Ư bố đẻ bị cáo có đơn xin lại chiếc xe trên cho gia đình làm phương tiện đi lại chung cho gia đình. Nên trả lại cho gia đình ông Lò Văn Ư.

[7] Các vấn đề khác:

Về nguồn gốc số ma túy bị cáo Lò Văn K khai mua của một người tên là K1 tại bản SL 1, xã CC, huyện MS, khi bị cáo với K1 mua bán ma túy không có ai biết. Cơ quan điều tra đã xác minh tai địa chỉ trên có một đối tượng tên là Lò văn K1 sinh năm 1967, hiên nay Lò Văn K1 không có mặt tại địa phương, không ai biết Lò Văn K1 đi đâu, làm gì, ở đâu. Do đó Cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra mở rộng vụ án. Nên buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm về khối lương ma túy mà bị cáo đã tàng trữ.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017):

Tuyên bố bị cáo Lò Văn K phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Lò Văn K 12 (Mười hai) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bị tạm giữ, tạm giam (ngày 01/7/2020).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy :

+ 01 phong bì thư bên trong chứa vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu; mảnh nilon màu xanh, màu hồng gói ma túy ban đầu;

+ 01 phong bì niêm phong bên trong chứa 0,11 gam Methamphetamine.

- Tịch thu sung công qu Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIETTEL màu đỏ, đen kèm theo 01 sim điện thoại của Lò Văn K.

- Trả lại 01 xe máy nhãn hiệu SYM (loại xe thồ) gắn biển kiểm soát 24K8 – 8183, xe đã qua sử dụng cho ông Lò Văn Ư.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 07/BB-CCTHADS ngày ngày 02 tháng 11 năm 2020).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điều 21, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000VNĐ.

Báo cho bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 02/2020/HS-ST ngày 06/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:02/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Sơn - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;