Bản án 02/2020/HN-ST ngày 28/02/2020 về xin ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY NAM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 02/2020/HN-ST NGÀY 28/02/2020 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 28 tháng 02 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 460/2019/TLST-HN ngày 19 tháng 12 năm 2019 về việc “xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16b/2020/QĐXXST-HN ngày 10 tháng 02 năm 2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 40/2020/QĐST-HN ngày 19/02/2020 giữa:

* Nguyên đơn: Dương Thị Bé Th, sinh 1987 (có yêu cầu xét xử vắng mặt)

Trú tại: Ấp Thạnh Đ, xã Hương M, huyện Mỏ Cày N, tỉnh Bến Tre.

* Bị đơn:

Trần Minh G, sinh 1987 (vắng mặt không có lý do)

Trú tại: Ấp Thạnh Đ, xã Hương M, huyện Mỏ Cày N, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện nguyên đơn chị Th trình bày:

Vào năm 2017 do quen biết, nên tôi và anh G đã tiến tới hôn nhân, chúng tôi có đăng ký kết hôn tại UBND xã Hương Mỹ, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre. Sau khi cưới nhau chúng tôi sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, từ đó chúng tôi sống ly thân từ tháng 7/2018 đến nay. Nay tôi xin ly hôn với anh G.

Quá trình sống chung chúng tôi có 01 con chung tên Trần Đăng K, sinh 20/11/2018, con hiện đang sống với tôi, nay tôi xin nuôi con, yêu cầu anh G cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000 đồng đến khi con tròn 18 tuổi.

Tài sản chung, nợ chung: Không có.

Bị đơn Trần Minh G vắng mặt trong các giai đoạn tố tụng của Tòa án và cũng không có bất cứ lời trình bày nào đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm cho rằng các giai đoạn tố tụng của Tòa án từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án thực hiện nhiệm vụ tuân thủ đúng các quy định pháp luật, người tham gia tố tụng nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật, bị đơn không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án mặt dù đã được tống đạt hợp lệ đầy đủ, nên đề nghị tiếp tục xét xử vụ án. Về nội dung vụ án đề nghị Áp dụng điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Th.

Về con chung: Đề nghị giao con cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng, và buộc anh G cấp dưỡng nuôi cháu K mỗi tháng 1.000.000 đồng.

Tài sản chung, nợ chung: Không có, nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào lời trình bày của các đương sự, căn cứ vào kết quả tranh luận, Hội đồng xét xử nhận thay.

* Về áp dụng pháp luật tố tụng:

[1] Về quyền khởi kiện: Chị Th cho rằng quá trình sống chung giữa vợ chồng không còn hạnh phúc nên muốn ly hôn, do đó chị khởi kiện. Căn cứ điều 51 luật hôn nhân và gia đình; khoản 2 điều 68, điều 186 Bộ luật Tố tụng dân sự thì chị Th có quyền khởi kiện.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Đối với yêu cầu của chị Th là tranh chấp về việc ly hôn. Căn cứ khoản 1 điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự thì loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án và nơi cư trú của bị đơn thuộc xã Hương Mỹ, huyện Mỏ Cày Nam. Căn cứ điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam thụ lý giải quyết là phù hợp pháp luật.

[3] Bị đơn Trần Minh G đã được Tòa án triệu tập xét xử hai lần hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, nguyên đơn chị Th có yêu cầu xét xử vắng mặt. Căn cứ điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt đối với tất cả các đương sự.

* Về nội dung giải quyết vụ án:

[1] Chị Th, anh G kết hôn trên cơ sở tự tìm hiểu quen biết và tự nguyện tiến đến hôn nhân, anh, chị có đăng ký kết hôn tại UBND cấp có thẩm quyền, do đó hôn nhân của anh chị là hôn nhân hợp pháp, nên được pháp luật công nhận và bảo vệ. Sau khi kết hôn anh chị sống có hạnh phúc trong thời gian dài có con chung lẽ ra anh, chị phải biết gìn giữ, nhưng từ những mâu thuẫn trong đời sống thường ngày mà anh, chị không tìm cách để khắc phục, từ đó vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng và anh, chị đã quyết định sống ly thân cách nay hơn 01 năm bỏ mặt cho nhau. Quá trình Tòa án thụ lý giải quyết chị Th vẫn giữ nguyên quan điểm ly hôn, còn anh G đã được triệu tập rất nhiều lần để Tòa án tiến hành tổ chức hòa giải tạo điều kiện cho vợ chồng đoàn tụ nhưng anh vẫn cố tình vắng mặt không có lý do. Điều đó cho thấy anh G không có thiện chí muốn trở về chung sống với chị Th. Xét mâu thuẫn vợ chồng anh chị là có thật, nếu để anh chị tiếp tục chung sống thì mục đích hôn nhân sẽ không đạt được, do đó chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Th là phù hợp.

[2] Về con chung: Quá trình khởi kiện chị Th xin được nuôi cháu Trần Đăng K, còn anh G sau khi Tòa án thụ lý vụ án, mặc dù anh đã nhận được thông báo của Tòa án về nội dung chị Th yêu cầu nhưng anh cũng không có bất cứ văn bản nào gửi Tòa án thể hiện ý kiến đối với yêu cầu của chị Th về con chung và cháu K chưa tròn 36 tháng tuổi, nên chấp nhận yêu cầu của chị Th là phù hợp, Đối với mức cấp dưỡng chị Th yêu cầu hội đồng xét xử chỉ chấp nhận ở mức 1.000.000 đồng/tháng là phù hợp.

[3] Tài sản chung, nợ chung: Không có, nên không xem xét.

[4] Chị Th phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm, anh G chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật

[5] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử, nên được chấp nhận toàn bộ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Áp dụng điều 27 nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Dương Thị Bé Th. Chị Dương Thị Bé Th được ly hôn với anh Trần Minh G.

Về con chung: chị Th được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trần Đăng K, sinh ngày 20/11/2018, anh G cấp dưỡng nuôi cháu K mỗi tháng 1.000.000 đồng đến khi cháu K tròn 18 tuổi, thời hạn bắt đầu cấp dưỡng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 28/02/2020)

Sau khi ly hôn, cha mẹ đều có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với con chung, người không trực tiếp nuôi con có quyền đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung, không ai được quyền ngăn cản.

Vì lợi ích của con chưa thành niên, khi có căn cứ một hoặc cả hai bên chị Th, anh G được quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung, nợ chung: Không có, nên không xem xét.

Án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Th chịu 300.000 đồng nhưng được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0008085 ngày 09/12/2019 là đủ. Anh G chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 02/2020/HN-ST ngày 28/02/2020 về xin ly hôn

Số hiệu:02/2020/HN-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Nam - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;