Bản án 02/2020/HNGĐ-ST ngày 16/11/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XÍN MẦN, TỈNH HÀ GIANG

 BẢN ÁN 02/2020/HNGĐ-ST NGÀY 16/11/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 16 tháng 11 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xín Mần tỉnh Hà Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 12/2020/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn:

Chị Lù Thị V, sinh năm 1994; Địa chỉ: Thôn L, xã T, huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang;

2. Bị đơn:

Anh Sèn Đức V, sinh năm 1990; Địa chỉ: Thôn K, xã T, huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 14 tháng 4 năm 2020, các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Lù Thị V trình bày:

Ngày 26 tháng 7 năm 2013 chị Lù Thị V và anh Sèn Đức V đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang. Việc kết hôn do hai bên tự nguyện không ai ép buộc. Sau kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh V uống rượu say thường xuyên chửi bới, xúc phạm danh dự, nhân phẩm chị V, nhiều lần anh V đánh chị V dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng căng thẳng. Ngày 14 tháng 10 năm 2014 do không thể chung sống với anh Vang được nữa chị V đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở thôn L, xã T, huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang sống ly thân với anh Sèn Đức V cho đến bây giờ. Từ ngày chị V về nhà bố mẹ đẻ sống ly thân với anh V, nhiều lần chị V bị anh V chặn đường bắt ép về nhà, chị V không nghe, anh V nhiều lần đánh chị V ở dọc đường. Ngày 31/3/2020 chị V bị anh V đánh thâm tím chân tay, lần này có anh Gì Thanh V, Trưởng thôn L xã T, huyện Xín Mần chứng kiến. Nay chị V nhận thấy không còn tình cảm vợ chồng với anh V nữa, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Vì vậy chị V đề nghị Tòa án giải quyết cho được ly hôn với anh Sèn Đức V.

Về con riêng: Không có.

Về con chung: Chị V và anh V có một con chung là cháu Sèn Văn H, sinh ngày 03 tháng 5 năm 2013. Chị Lù Thị V đồng ý để anh Sèn Đức V nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu H đến tuổi trưởng thành. Chị V không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, tài sản riêng và các khoản nợ chị V và anh V tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại Bản tự khai ngày 20 tháng 5 năm 2020, các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa bị đơn anh Sèn Đức V trình bày:

Anh V và chị V đi đến hôn nhân là do tự nguyện, không bị ép buộc. Trong cuộc sống hàng ngày vợ chồng anh V, chị V thường xuyên chửi bới, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nhau, không tìm được tiếng nói chung. Ngày 14 tháng 10 năm 2014 chị Lù Thị V bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở thôn L xã T huyện Xín Mần và ly thân với anh V cho đến bây giờ. Chị Lù Thị V có đơn xin ly hôn, anh V không đồng ý ly hôn với chị Lù Thị V. Anh V nói rằng vẫn còn tình cảm với chị V nên không muốn ly hôn.

Về con riêng: Không có.

Về con chung: Anh V và chị V có một con chung là cháu Sèn Văn H, sinh ngày 03 tháng 5 năm 2013. Nếu chị V nhất quyết xin ly hôn thì anh V nhận nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu H đến tuổi trưởng thành. Anh V không yêu cầu chị V phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, tài sản riêng và các khoản nợ anh V và chị V tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Xín Mần tỉnh Hà Giang tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm xét xử và tại phiên tòa đã thực hiện đúng các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70 và Điều 71, Điều 72 và Điều 73 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Viện Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1, Điều 51; khoản 1, Điều 56; Điều 57; Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lù Thị V. Cho chị V được ly hôn với anh V. Giao con chung cho anh V tiếp tục nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục đến tuổi trưởng thành. Chị Lù Thị V không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Chị Lù Thị V được miễn án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Tòa án nhân dân huyện Xín Mần tỉnh Hà Giang nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn chị Lù Thị V khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn, nuôi con chung. Bị đơn anh Sèn Đức V khôgn đồng ý ly hôn. Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xác định đây là vụ án “Tanh chấp ly hôn, nuôi con chung”, Tòa án nhân dân huyện Xín Mần tỉnh Hà Giang thụ lý, giải quyết là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền: Bị đơn trú tại xã T, huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Xín Mần tỉnh Hà Giang.

[3] Tại phiên tòa, nguyên đơn không rút yêu cầu khởi kiện, không có căn cứ thể hiện việc các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án.

[4] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lù Thị V và anh Sèn Đức V tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Thèn Phàng, huyện Xín Mần tỉnh Hà Giang ngày 26 tháng 7 năm 2013. Quan hệ hôn nhân giữa anh V và chị V là hôn nhân hợp pháp phù hợp theo quy định tại Điều 9, Điều 11 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và các điều 8, 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Xét yêu cầu xin ly hôn của chị V thấy rằng: Qua các chứng cứ thu thập được cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa và lời trình bày của các đương sự, xác định quá trình chung sống giữa anh V và chị V nảy sinh nhiều mâu thuẫn, bất đồng trong cuộc sống, anh V không tôn trọng vợ, có hành vi ngược đãi về thể xác và tinh thần đối với chị V. Anh V thừa nhận cuộc sống vợ chồng giữa anh V và chị V nảy sinh nhiều mâu thuẫn, chị V và anh V đã ly thân từ ngày 14/10/2014 cho đến bây giờ. Trong quá trình ly thân anh V và chị V không hề quan tâm đến nhau, bỏ mặc nhau muốn sống ra sao thì sống. Đến khi chị V làm đơn xin ly hôn anh V, trên thực tế anh V không còn tình cảm gì với chị V nữa nhưng anh V vẫn không đồng ý ly hôn với lý do đời anh V chỉ lấy vợ một lần, không muốn lấy vợ lần hai. Trên thực tế anh V đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng như thường xuyên xúc phạm danh dự, nhân phẩm của chị V, có hành vi đánh đập, ngược đãi, hành hạ chị V làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu cho chị V được ly hôn anh V.

[5] Về quan hệ nuôi con chung: Hai bên thỏa thuận giao cháu Sèn Văn H, sinh ngày 03 tháng 5 năm 2013 cho anh Sèn Đức V nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi trưởng thành. Chị Lù Thị V không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Tại Biên bản ghi lời khai ngày 23/7/2020 cháu Sèn Văn H có nguyện vọng được sống cùng bố là anh Sèn Đức V. Thỏa thuận của anh V và chị V hợp với nguyện vọng của cháu H nên Hội đồng xét xử cần xem xét chấp nhận.

[6] Về quan hệ tài sản: Anh Sèn Đức V và chị Lù Thị V tài sản chung, tài sản riêng và các khoản nợ anh V và chị V tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Nguyên đơn chị Lù Thị V có đơn xin miễn án phí dân sự sơ thẩm. Chị Lù Thị V sống ở vùng đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 900/QĐ-TTg ngày 20/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ. Chị Lù Thị V là người dân tộc Nùng theo Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính phủ là đồng bào dân tộc thiểu số. Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị Lù Thị V được miễn án phí dân sự sơ thẩm.

[7] Về quyền kháng cáo đối với bản án: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 1 điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm đ khoản 1 Điều 12;

Điều 14; khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Lù Thị V được ly hôn với anh Sèn Đức V.

2. Về con chung: Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, giao cháu cháu Sèn Văn H, sinh ngày 03 tháng 5 năm 2013 cho anh Sèn Đức V nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi trưởng thành (đủ 18 tuổi). Chị Lù Thị V không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Chị Lù Thị V có quyền đi lại thăm nom và chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

3. Về quan hệ tài sản: Các đương sự đã tự thỏa thuận với nhau không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề cập đến.

4. Về án phí: Chị Lù Thị V được miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn chị Lù Thị V, bị đơn anh Sèn Đức V có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 02/2020/HNGĐ-ST ngày 16/11/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:02/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xín Mần - Hà Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;