TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 02/2020/HNGĐ-ST NGÀY 16/01/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG GIỮA CHỊ Y VÀ ANH D
Ngày 16 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 266/2019/TLST–HNGĐ ngày 02 tháng 10 năm 2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 69/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 12 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 49/2019/QĐST-HNGĐ ngày 31 tháng 12 năm 2019 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Mai Thị Y sinh năm 1984 Nơi ĐKHKT: Thôn L, xã X, huyện P, tỉnh Thái Bình; Nơi ở: Thôn B, xã H, huyện P, tỉnh Thái Bình - Bị đơn: Anh Trần Văn D sinh năm 1980 Nơi cư trú: Thôn L, xã X, huyện P, tỉnh Thái Bình.
(Tại phiên tòa có chị Y, vắng mặt anh D không có lý do)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ghi ngày 12/9/2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Mai Thị Y trình bày:
Chị và anh Trần Văn D tự do, tự nguyện tìm hiểu dẫn đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại UBND xã X, huyện P vào ngày 26/12/2001. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại gia đình anh D. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, hòa thuận đến năm 2013 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh D có biểu hiện không chung thủy, lại có tính hay ghen, ngoài ra còn chơi bời, không tu chí làm ăn, từ đó không quan tâm đến gia đình, vợ, con. Mâu thuẫn đỉnh điểm vào tháng 8/2019, từ tháng 9/2019 vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Nay chị thấy tình cảm vợ chồng giữa chị và anh D không còn, chị xin ly hôn anh D.
Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Trần Ngọc K sinh ngày 19/10/2002 và Trần Mai C sinh ngày 16/6/2006, hiện cả 02 con đều đang ở với anh D. Ly hôn, chị nhận trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng con Trần Mai C, còn anh D trực tiếp nuôi dưỡng con Trần Ngọc K, chị và anh D không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Hiện tại chị không có thai nghén gì.
Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Anh Trần Văn D vắng mặt nên không có ý kiến trình bày:
Kết quả xác minh với ông Trần Văn Lừng (bố đẻ anh D) và cơ sở thôn Xuân La Đông, xã X thấy: Chị Mai Thị Y và anh Trần Văn D là vợ chồng, quá trình chung sống và nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng thì gia đình và cơ sở thôn không biết rõ, chỉ biết do anh D không tu chí làm ăn, có tính hay ghen, lại có biểu hiện không chung thủy, không quan tâm đến gia đình, vợ, con, có lần vợ chồng mâu thuẫn anh D đã đánh chị Y, từ tháng 9/2019 vợ chồng ly thân. Chị Y và anh D có 02 con chung là Trần Ngọc Ksinh ngày 19/10/2002 và Trần Mai C sinh ngày 16/6/2006, hiện cả hai con đang ở với anh D. Từ ngày chị Y anh D ly thân anh D chăm sóc con rất chu đáo, những lúc anh D vắng nhà thì bố mẹ anh D là người thay anh D chăm sóc cháu Diện và cháu Chi nhưng chị Y vẫn thường xuyên chăm sóc các con chung, chị Y có ý định đón các con ở cùng nhưng anh D không đồng ý. Về tài sản chung gia đình và cơ sở thôn không biết rõ. Nay chị Y có đơn xin ly hôn gia đình và cơ sở thôn đề nghị Tòa án hòa giải đoàn tụ, nếu hòa giải đoàn tụ không thành thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, về con chung và cấp dưỡng cho con đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình về giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đều tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt nên Viện kiểm sát không có ý kiến nhận xét về việc tuân theo pháp luật của bị đơn tại phiên tòa.
Về nội dung: Đề nghị HĐXX căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, xử cho chị Mai Thị Y được ly hôn anh Trần Văn D; giao con chung Trần Ngọc Ksinh ngày 19/10/2002 cho anh Trần Văn D trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Trần Mai Csinh ngày 16/6/2006 cho chị Mai Thị Y trực tiếp nuôi dưỡng, chị Y và anh D không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Chị Y và anh D có quyền, nghĩa vụ đi lại trông nom và giáo dục con chung; về tài sản chung không đặt ra giải quyết; chị Y phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.
[1] Về tố tụng: Chị Mai Thị Y khởi kiện ly hôn, nuôi con chung với anh Trần Văn D. Do anh D là bị đơn cư trú tại Thôn L, xã X, huyện P, tỉnh Thái Bình nên TAND huyện Quỳnh Phụ, thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự. Anh D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do vì vậy Tòa án tiến hành xét xử là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Mai Thị Y và Trần Văn D được xây dựng trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân dân xã X, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình cấp giấy đăng ký kết hôn số 01 ngày 26/12/2001 là hôn nhân hợp pháp. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, hòa thuận đến năm 2013 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh D không tu chí làm ăn, lại có tính hay ghen, ngoài ra anh D có biểu hiện không chung thủy, từ đó không quan tâm đến gia đình, vợ, con, nhiều lần vợ chồng mâu thuẫn anh D đã đánh đập chị Y. Mâu thuẫn đỉnh điểm vào tháng 8/2019, đến tháng 9/2019 đã thuê nhà tại Thôn B, xã H, huyện P sinh sống, vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Nay chị Y có đơn xin ly hôn anh D, anh D không đưa ra quan điểm mặc dù anh D đã nhận được văn bản tố tụng của Tòa án nhưng anh D vẫn vắng mặt tại phiên hòa giải và vắng mặt tại các buổi tố tụng của Tòa án. Điều đó chứng tỏ anh D không có thiện chí hòa giải, không có nguyện vọng đoàn tụ vợ chồng. Như vậy, hôn nhân của anh, chị thực tế chỉ tồn tại về mặt hình thức, anh, chị thực sự không thể chung sống với nhau được nữa, mục đích hôn nhân không đạt được, vì vậy cần chấp nhận yêu cầu của chị Y, xử cho chị Y được ly hôn anh D là phù hợp với Điều 56 luật Hôn nhân và gia đình.
[3] Về quan hệ con chung: Chị Mai Thị Y và anh Trần Văn D có 02 con chung là Trần Ngọc K sinh ngày 19/10/2002, hiện đang học lớp 12A14 trường PTTH QC và Trần Mai Chi sinh ngày 16/6/2006, hiện đang học lớp 8B trường Tiểu học và THCS X, hiện cả hai con chung đang ở với anh D. Ly hôn, chị Y nhận trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng con Trần Mai C, chị để anh D trực tiếp nuôi dưỡng con Trần Ngọc K, chị và anh D không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Xét nguyện vọng của chị Y thấy, từ ngày chị Y anh D ly thân, anh D chăm sóc con rất chu đáo, những lúc anh D vắng nhà thì bố mẹ anh D là người thay anh D trực tiếp chăm sóc con chung, còn chị Y không trực tiếp ở cùng các con chung nhưng chị Y vẫn thường xuyên chăm sóc các con chung, chị Y có ý định đưa các con ở cùng nhưng anh D không đồng ý. Hiện tại, anh D có chỗ ở ổn định nhưng anh D lao động tự do, thu nhập không ổn định, còn chị Y mặc dù đang ở nhà thuê nhưng cũng đủ để đảm bảo sinh hoạt cho chị và các con, hơn nữa chị Y đang làm công nhân có thu nhập ổn định. Nguyện vọng của con Trần Ngọc K muốn ở với anh D còn con Trần Mai C muốn ở với chị Y. Như vậy, cần giao con chung Trần Ngọc Kcho anh D trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Trần Mai C cho chị Mai Thị Y trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với các Điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình.
[4] Về tài sản chung: Chị Mai Thị Y không yêu cầu Tòa án giải quyết, còn anh Trần Văn D không có ý kiến trình bày, do đó về tài sản chung Hội đồng xét xử không xét.
[5] Về án phí: Chị Mai Thị Y phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
[6] Về quyền kháng cáo: Chị Mai Thị Y và anh Trần Văn D có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;
khoản 3 Điều 228, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án:
1.Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Mai Thị Y được ly hôn anh Trần Văn D.
2.Về quan hệ con chung: Xử giao con chung Trần Ngọc Ksinh ngày 19/10/2002 cho anh Trần Văn D trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Trần Mai Chi sinh ngày 16/6/2006 cho chị Mai Thị Y trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Y, anh D không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho và đều có quyền, nghĩa vụ trông nom giáo dục con chung mà không ai được cản trở.
3.Về tài sản chung: Hội đồng xét xử không giải quyết.
4. Về án phí: Chị Mai Thị Y phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị Y đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0004147 ngày 02 tháng 10 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình được chuyển thành tiền án phí.
5. Về quyền kháng cáo: Chị Mai Thị Y có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Trần Văn D có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ bản án.
Bản án 02/2020/HNGĐ-ST ngày 16/01/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung giữa chị Y và anh D
Số hiệu: | 02/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 16/01/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về