TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 02/2020/HNGĐ-PT NGÀY 19/05/2020 VỀ YÊU CẦU THANH TOÁN CÔNG SỨC ĐÓNG GÓP TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN
Ngày 19 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 01/2020/TLPT-HNGĐ ngày 20 tháng 01 năm 2020 về “Yêu cầu thanh toán công sức đóng góp trong thời kỳ hôn nhân”.
Do Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 27/2019/HNGĐ-ST ngày 29 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện C bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 03/2020/QĐ-PT ngày 16-4-2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2020/QĐ-PT ngày 28 – 4-2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hoài T; địa chỉ: Thôn S, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Nông – vắng mặt.
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn: Anh Nguyễn Anh T; địa chỉ: Thôn S, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Nông – có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Ông Trần Cao T- Trưởng khoa N, Trường C tỉnh Đắk Nông – có mặt.
- Bị đơn: Anh Vũ Văn H; địa chỉ: Thôn T, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Nông – vắng mặt.
- Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
Bà Lê Thị V; địa chỉ: Thôn S, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Nông – có đơn xin xét xử vắng mặt.
Ông Vũ Đức D; địa chỉ: Thôn T, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Nông-vắng mặt.
Bà Vũ Thị H; địa chỉ: Thôn T, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Nông-có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Năm 2014, chị T và anh H kết hôn. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị mượn đất của bà Lê Thị V là mẹ đẻ của chị để ở và canh tác. Được sự đồng ý của bà V, vợ chồng chị đã xây nhà ở, các công trình phụ và đầu tư trồng cây trên đất. Năm 2017, anh chị ly hôn, được giải quyết tại bản án số 09/2017/HNGĐ-ST ngày 03/7/2017 của Tòa án nhân dân huyện C. Tại thời điểm ly hôn, vì muốn giải quyết vụ việc nhanh chóng, chị xác định vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Nay chị khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc anh H phải thanh toán cho chị công sức đóng góp trong thời kỳ hôn nhân. Cụ thể: Giá trị 01 nhà ở 20.000.000 đồng, nhà vệ sinh 2.500.000 đồng, mái che 6.000.000 đồng, hàng rào trụ bê tông 1.000.000 đồng, sân bê tông 2.500.000 đồng, trụ cổng, cửa 3.000.000 đồng, giếng khoan 7.000.000 đồng, hệ thống ống tưới nhựa 3.000.000 đồng, tiền và công sức đóng góp chăm sóc cây tiêu 140.000.000 đồng. Tổng cộng là 185.000.000đ.
Tại phiên tòa sơ thẩm, chị xin rút một phần yêu cầu khởi kiện với số tiền 85.000.000 đồng, còn lại yêu cầu Tòa án buộc anh H phải thanh toán cho chị số tiền 100.000.000 đồng.
Về tiền nợ: Cuối năm 2014, anh H có vay của bà V 01 cây vàng và 100.000.000 đồng để xây nhà và đầu tư trên đất. Tại bản án số 17/2019/DSPT ngày 12/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đ xác định số nợ này là nợ riêng của anh H và tuyên buộc anh H có nghĩa vụ trả nợ cho bà V. Do đó, chị không có ý kiến gì về khoản nợ này.
Đối với bị đơn: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử sơ thẩm, mặc dù Tòa án đã thông báo, triệu tập nhiều lần nhưng không hợp tác. Vì vậy, không thu thập được lời khai, ý kiến trình bày.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Vũ Thị Htrình bày:
Chị T và anh H kết hôn năm 2014. Trước khi kết hôn, anh chị không có tài sản riêng. Sau khi kết hôn, bà V là mẹ đẻ của chị T cho hai vợ chồng mượn đất để ở và canh tác, còn vợ chồng bà (bố mẹ đẻ của anh H) đầu tư tiền xây dựng nhà ở, các công trình trên đất và tiền trồng trọt, chăm sóc cây cối. Quá trình chung sống 03 năm (trong đó ly thân 01 năm), anh H làm rẫy, còn chị T ở nhà sinh 02 con và trông coi một shop quần áo do ông bà bỏ vốn để mở. Năm 2017, anh chị ly hôn. Đến nay, chị T yêu cầu chia công sức đóng góp trong thời kỳ hôn nhân thì bà không đồng ý. Bởi trong quá trình chung sống, tất cả các khoản tiền đầu tư là của vợ chồng bà và của anh H mượn bà V; anh H, chị T không làm ra được bât cứ khoản tiền nào.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị V Trình bày: Bà là mẹ đẻ của chị T. Năm 2014, sau khi chị T và anh H kết hôn, bà có cho hai vợ chồng mượn đất để ở và canh tác, đồng thời cho anh H mượn tiền để xây nhà và đầu tư vườn rẫy. Số tiền nợ là của một mình anh H. Năm 2018, sau khi hai bên ly hôn, bà khởi kiện yêu cầu anh H trả lại đất và khoản nợ đã vay của bà. Tại bản án số 17/2019/DSPT ngày 12/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đ về yêu cầu tuyên hợp đồng vô hiệu, giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu và tranh chấp hợp đồng vay tài sản đã chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà, tuyên buộc anh H phải trả lại đất và trả tiền nợ cho bà, buộc bà phải thanh toán lại cho anh H giá trị tài sản trên đất là 453.967.000đ. Sau khi đối trừ khoản nợ 134.500.000đ anh H phải trả cho bà, tổng cộng bà phải trả cho anh H số tiền 319.467.000đ.
Nay chị T yêu cầu anh H chia công sức đóng góp trong thời kỳ hôn nhân, bà không có ý kiến gì.
Tại bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 27/2019/HNGD-ST ngày 29/11/2019 Tòa án nhân dân huyện C đã tuyên xử: Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đình chỉ xét xử đối với số tiền 85.000.000đ (tám mươi lăm triệu đồng) nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện. Ngoài ra, bản án còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo.
Ngày 10/12/2019, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là anh Nguyễn Anh T kháng cáo yêu cầu Tòa án buộc anh H phải thanh toán cho chị T số tiền 100.000.000đ.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và nội dung kháng cáo.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày quan điểm: Lời khai của bị đơn anh Vũ Văn H tại các bản án ly hôn và yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu có rất nhiều mâu thuẫn. Nhận định của bản án sơ thẩm và phúc thẩm trong vụ án yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu giữa bà Lê Thị V và anh Vũ Văn H cũng mâu thuẫn, không làm rõ được vấn đề tài sản chung, nợ chung và nguồn gốc hình thành tài sản của chị T và anh H.
Về xác định tài sản chung: Theo quan điểm của bên nguyên đơn, tài sản đang tranh chấp là tài sản chung của vợ chồng, bởi tài sản này hình thành trong thời kỳ hôn nhân, trước khi anh H ký hợp đồng thuê đất với bà V. Vì tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung, nên nếu anh H cho rằng là tài sản riêng thì phải chứng minh, phía chị T không có nghĩa vụ này.
Mặt khác, tại điểm b khoản 2 Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập”. Cho nên, việc cấp sơ thẩm đánh giá lao động của chị T là lao động không có công ích và buộc phải cung cấp chứng cứ chứng minh là không phù hợp và không đảm bảo nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ. Mặc dù không có chứng cứ chứng minh, nhưng công sức đóng góp của chị T vào khối tài sản chung của vợ chồng là có thật. Do đó, đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu kháng cáo, buộc anh H phải chia cho chị T một phần công sức đóng góp trong số tiền giá trị tài sản.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng trong việc xét xử vụ án; các bên đương sự thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật; về nội dung: Căn cứ khoản 2 Điều 308; Điều 309 của Bộ Luật tố tụng dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, sửa bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu lưu trong hồ sơ, kết quả xét hỏi, tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1]. Về tố tụng:
[1.1]. Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn nộp đơn kháng cáo trong thời hạn luật định, đã đóng tạm ứng án phí đầy đủ, vì vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông giải quyết theo thủ tục phúc thẩm là đúng quy định.
[1.2]. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa, do đó Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với bị đơn theo quy định của pháp luật.
[2]. Về nội dung: Xét kháng cáo của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy:
Ngày 18/4/2014, chị T và anh H kết hôn. Tháng 2/2017, anh chị ly thân, chị T về ở nhà mẹ đẻ. Đến ngày 03/7/2017, anh chị ly hôn, được giải quyết tại bản án số 09/2017/HNGĐ-ST ngày 03/7/2017 của Tòa án nhân dân huyện C. Về tài sản chung: Theo đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 08/3/2017 cũng như tất cả các bản tự khai có trong hồ sơ vụ án ly hôn, tranh chấp nuôi con chung, nợ chung thụ lý số 60/2017/HNGĐ-ST ngày 30/3/2017, cả chị T và anh H đều thừa nhận không có tài sản chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Năm 2018, bà Lê Thị V khởi kiện “yêu cầu tuyên hợp đồng thuê nhà, quyền sử dụng đất vô hiệu, giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu và tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, chị T được xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Quá trình giải quyết vụ án, anh Nguyễn Anh T là người đại diện theo ủy quyền của chị T đã xác nhận: “Đối với các tài sản là căn nhà cấp 4, giếng khoan và các tài sản khác trên diện tích đất đều là tài sản riêng của anh H”. Tại biên bản đối chất ngày 15/11/2018, anh T xác định: “Qua trao đổi với em gái thì em gái tôi hoàn toàn đồng ý và công nhận các tài sản được tạo dựng trên diện tích đất anh H ký hợp đồng thuê nhà của bà V là tài sản riêng của anh H, do một mình anh H tạo dựng”. Anh T khẳng định: “Các tài sản này cũng đều là tài sản riêng của anh H, hiện nay anh H và gia đình anh H cũng là người trực tiếp sử dụng và quản lý các tài sản này, do đó đây là nợ riêng của anh H đối với bà V nên anh H phải có nghĩa vụ trả nợ đối với khoản nợ này”. Bên cạnh đó, chính bà Lê Thị V (mẹ đẻ chị T) cũng thừa nhận số tiền 100.000.000đ, 01 cây vàng 9999, 20.000.000đ tiền giống tiêu là do một mình anh H mượn để sử dụng đầu tư vào việc làm nhà và trồng cây trên đất; bà thừa nhận các tài sản trên đất đều là tài sản riêng của anh H. Lời khai này đồng thời phù hợp với lời khai của ông D, bà H cho rằng: Trong quá trình chung sống, anh H và chị T không có tài sản chung, toàn bộ tài sản (nhà ở, các công trình xây dựng và cây trồng) trên đất bà V là của riêng anh H.
Như vậy, có căn cứ để khẳng định, mặc dù các tài sản trên đất của bà V hình thành trong thời kỳ hôn nhân của chị T, anh H, nhưng nguồn gốc số tiền đầu tư bỏ ra không phải của vợ chồng chị T, anh H, mà là tiền của bố mẹ anh H và từ tiền của anh H mượn bà V để xây dựng nhà, các công trình phụ và trồng cây trên đất. Do đó, các tài sản này là tài sản riêng của anh H.
Tại phiên tòa phúc thẩm, phía nguyên đơn cũng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ gì mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình. Xét đề nghị của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn và đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông là không có căn cứ. Vì vậy, HĐXX không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn về yêu cầu thanh toán công sức đóng góp, mà cần giữ nguyên bản án sơ thẩm số 27/2019/HNGD-ST ngày 29/11/2019 Tòa án nhân dân huyện C.
[3]. Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên nguyên đơn phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308, khoản 1 Điều 148 của Bộ Luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí tòa án, tuyên xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
2. Về án phí: Buộc chị Nguyễn Thị Hoài T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự phúc thẩm, được khấu trừ số tiền đã nộp theo biên lai số 0000572 ngày 12/12/2019 tại Chi Cục thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Đắk Nông.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày thi hành án.
Bản án 02/2020/HNGĐ-PT ngày 19/05/2020 về yêu cầu thanh toán công sức đóng góp trong thời kỳ hôn nhân
Số hiệu: | 02/2020/HNGĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 19/05/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về