Bản án 02/2019/HS-ST ngày 25/10/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MINH LONG, TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 02/2019/HS-ST NGÀY 25/10/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 25 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Minh Long, tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 01/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 8 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 10 năm 2019, đối với bị cáo:

Đinh H, Sinh ngày 06 tháng 3 năm 1998 tại xã T, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi; nơi đăng hộ khẩu thường trú: Thôn P, xã T, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú: Thôn M, xã LM, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Nông; trình độ văn hoá (học vấn): Lớp 7/12; dân tộc: H’rê; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Đinh R và bà Đinh Thị Y; vợ: Đinh Thị D; con: Đinh Độc L, sinh năm 2017; tiền án: Không; tiền sự: Không; đặc điểm nhân thân: Tốt; Bị cáo tại ngoại (theo Quyết định cấm đi khỏi nơi cư trú số 01/2019/QĐST-HS, ngày 14/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Quảng Ngãi). Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo H: Bà Võ Thị H; Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Ngãi;

Đa chỉ: Số 108, đường Phan Đình Phùng, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi. Có mặt.

Bị hại: Anh Đinh Cao S; sinh năm 1980;

Nơi cư trú: Thôn M, xã LM, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi. Đã chết.

Người đại diện hợp pháp của người bị hại: Chị Lê Thanh T; sinh năm 1981;

Nơi cư trú: Thôn M, xã LM, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Đinh Văn H; sinh năm 1997;

Nơi cư trú: Thôn Đ, xã T, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi. Có mặt.

Người làm chứng:

1. Chị Đinh Thị N; Sinh năm 1993;

Nơi cư trú: Thôn Đ, xã T, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi. Vắng mặt.

2. Anh Đinh Văn Tr; Sinh năm 1987;

Nơi cư trú: Thôn M, xã LM, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi. Có mặt.

3. Anh Đinh Văn Ti; Sinh năm 1994;

Nơi cư trú: Thôn M, xã LM, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi. Có mặt.

Người phiên dịch: Bà Đinh Thị B; sinh năm 1992; công tác tại Hội Liên hiệp phụ nữ xã L, huyện M. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 08/3/2019, từ sáng đến chiều tối, Đinh H và Đinh Văn Ho liên tục uống hết rượu đến bia với một số người khác tại nhà anh Th, nhà ông R, nhà anh Tu, rồi sau cùng là quán ông M. Tại đây, H và Ho cùng với anh Ti và anh Tr uống hết ½ thùng bia Dung Quất chai, rồi tất cả cùng rủ nhau xuống thôn M để uống tiếp. Lúc này khoảng 18 giờ tối, Ti và Tr đi trước, Ho ngồi trên xe của mình (xe mô tô biển kiểm soát 76P1-01312) chờ H. H đi vệ sinh xong vào bảo với Ho là muốn điều khiển xe (chìa khóa đã để sẵn trong xe), Ho không đồng ý, nhưng H vẫn ngồi lên phía trước xe và đẩy Ho lui về phía sau xe, rồi điều khiển xe chở Ho đi về hướng xã LM. Khi đi đến cầu ST (thuộc thôn 2, xã L), H điều khiển xe đi sang phía bên trái hướng theo chiều đi, nên đã gây tai nạn với xe mô tô Wave RSX biển kiểm soát 72G1-235.07 do anh Đinh Cao S điều khiển đang đi theo hướng ngược lại (chở theo vợ là chị Lê Thanh T). Hậu quả, anh S chết trên đường đi cấp cứu. Chị T, anh Ho và H bị thương được đưa đi cấp cứu.

Kết luận giám định số 361/KLGĐ-PC09 ngày 11/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi xác định, anh S chết do đa thương tích, đa chấn thương, chấn thương sọ não, vỡ sụp xương hộp sọ, xuất huyết não; Tỷ lệ tổn thương cơ thể đối với H là 35%, với Ho là 26%.

Ngày 07/5/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Minh Long đã ra Quyết định khởi tố vụ án, Quyết định khởi tố bị can, Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với Đinh H về tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a, b, khoản 2, Điều 260 Bộ luật hình sự.

Ngày 12/8/2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện Minh Long có Cáo trạng số 291/CT-VKS, truy tố bị cáo Đinh H về tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a, b khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự, để xét xử.

*Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận như sau: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo H đã khai nhận vào ngày 08/3/2019, sau khi đã nhậu cả ngày, đến khoảng 18 giờ, H điều khiển xe chở anh Ho đi đến cầu ST (thôn 2, L), H điều khiển xe đi sang phía bên trái hướng theo chiều đi nên đã gây tai nạn với xe mô tô Wave RSX BKS 72G1-235.07 do anh Đinh Cao S điều khiển (chở theo vợ là Lê Thanh T) đang đi ngược lại, làm anh S chết trên đường đi cấp cứu.

Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với tất cả các tình tiết và diễn biến tại phiên tòa, đã đủ yếu tố cấu thành tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a, b khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự. Điều này khẳng định việc truy tố của Viện kiểm sát đối với bị cáo H là hoàn toàn đúng người, đúng tội và đúng quy định pháp luật. Do đó, Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo H về tội danh nêu trên. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 260; Điều 38, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đinh H mức án từ 12 đến 18 tháng tù; về trách nhiệm dân sự, quá trình điều tra, gia đình bị hại đã nhận khoản tiền bồi thường 280.000.000 đồng. Tại phiên tòa, chị T không yêu cầu gì nữa về bồi thường, nên không xử lý.

+ Về vật chứng:

- Căn cứ khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị trả lại cho chủ sở hữu các tài sản: 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 76P1-01312 và 01 (một) Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển kiểm soát 76P1-01312, xác định là của anh Đinh Văn Ho; 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 72G1-235.07, xác định là của chị Lê Thanh T; Các vật chứng sau đây, các chủ sở hữu không yêu cầu trả lại, nên đề nghị tiêu hủy theo quy định tại khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: 01 (một) mũ bảo hiểm màu đen; 01 (một) đôi dép nhựa màu trắng có ghi chữ Bonus; 01 (một) đôi dép da nữ màu nâu; 01 (một) đôi dép da nam loại dây đai, có đế màu đen, dây đai màu nâu có ghi chữ Tiến Toàn; 01 (một) mũ lưỡi trai màu đen; 01 (một) mũ lưỡi trai màu đỏ; 01 (một) quần vải màu xám, trên lưng quần có tem mạc nhãn hiệu ghi Mifassy; 01 (một) áo sơ mi màu đen kẻ sọc trắng, trên cổ áo có tem mạc nhãn hiệu ghi q&m Farhion; 01 (một) quần Jean màu xanh - bạc, trên lưng quần có tem mạc nhãn hiệu ghi New Classic Versace; 01 (một) áo thun màu đen, trên cổ áo có tem mạc nhãn hiệu ghi Langshou, bị thủng 02 (hai) lổ ở phần ngực áo bên phải, nách áo phải bị rách.

* Người bào chữa cho bị cáo Hai, bà Võ Thị H có ý kiến: Người bào chữa và bị cáo H nhất trí với việc truy tố bị cáo H về tội danh, điều khoản áp dụng và hướng xử lý bị cáo, như luận tội của đại diện Viện kiểm sát; về trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo H như sau: Bị cáo tự nguyện bồi thường thiệt hại cho gia đình người bị hại; đã thành khẩn khai báo, đã thật sự ăn năn hối cải; đại diện người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; gia đình (ông nội bị cáo) là người có công với Cách mạng; bị cáo là người tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án (theo các điểm b, s và t khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự), bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Vì vậy, áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo H mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng là 12 tháng tù; về trách nhiệm dân sự, đại diện hợp pháp người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì nữa, nên không xử lý; về án phí sơ thẩm, đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo H, căn cứ theo điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

* Bị cáo H không có ý kiến tranh luận.

* Đại diện hợp pháp của người bị hại là chị Lê Thanh T trình bày: Về xử lý hình sự, chị T yêu cầu Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo đến mức thấp nhất; về trách nhiệm dân sự, chị không yêu cầu bị cáo và người có nghĩa vụ liên quan phải bồi thường cho gia đình chị bất cứ khoản gì nữa, kể cả khoản thiệt hại về tài sản (xe) bị thiệt hại, ngoài số tiền chị đã nhận bồi thường xong của bị cáo H là 280.000.000 đồng. Đồng thời, chị yêu cầu xin được nhận lại chiếc xe mô tô 72G1-235.07 của mình.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Đinh Văn Ho trình bày: Anh không yều cầu bị cáo phải bồi thường khoản thiệt hại gì về tài sản là chiếc xe mô tô biển kiểm soát 76P1-01312 của anh. Anh yêu cầu xin được nhận lại chiếc xe này và giấy tờ xe của mình.

Ngoài các ý kiến đã nêu trên, bị cáo, người bào chữa, đại diện Viện kiểm sát, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều không có bất kỳ lập luận nào khác để đối đáp với nhau trong quá trình tranh luận.

* Bị cáo H nói lời sau cùng: Bị cáo đã nhận ra được tội lỗi của mình và đã ăn năn hối cải, bị cáo xin lỗi gia đình người bị hại. Mong Hội đồng xét xử xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được xử hình phạt tù cho hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Minh Long, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Minh Long, Kiểm sát viên, các thành viên của Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, đều đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo Hai xuất trình tài liệu, chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật; người bào chữa, bị cáo không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng tại phiên tòa:

Hi đồng xét xử thảo luận tại phòng xử án (ở phần thủ tục bắt đầu phiên tòa) về trường hợp người làm chứng (chị Đinh Thị N) vắng mặt, thấy rằng trước đó đã có lời khai của chị ở cơ quan điều tra, sự vắng mặt của chị không làm ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiếp tục tiến hành phiên tòa xét xử vụ án, theo quy định tại khoản 1 Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Tại phiên tòa, bị cáo Đinh H đã có lời khai thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, xác định như sau:

Ngày 08/3/2019, Đinh H và Đinh Văn Ho liên tục từ sáng đến chiều tối uống hết rượu đến bia cùng một số người nữa ở nhiều nơi, sau cùng là uống bia tại quán ông M. Lúc này khoảng 18 giờ tối, bị cáo H, anh Ho, anh Tì và anh Tr cùng rủ nhau xuống thôn M để uống tiếp. H ngồi phía trước xe, điều khiển xe của Ho (biển kiểm soát 76P1-01312) chở Ho đi từ công viên Cây xanh, theo tỉnh lộ 624 hướng về xã LM. Khi đến cầu ST (thuộc thôn 2, xã LH), H điều khiển xe đi sang phía bên trái hướng theo chiều đi, nên đã gây tai nạn với xe mô tô biển kiểm soát 72G1- 235.07 do anh Đinh Cao S (chở theo vợ là chị Lê Thanh T) đang điều khiển đi theo hướng ngược lại, làm anh S chết khi được đưa đi cấp cứu, H và Ho bị thương.

[4] Nhận xét về sự khai nhận tội của bị cáo: Sự khai nhận tội của bị cáo H ở trên là thành khẩn, hoàn toàn không phải nhận tội vì các trường hợp: để che dấu tội khác nặng hơn, hay nhận tội thay cho người khác, hoặc nhận tội do bực tức hay bất cần vì mệt mỏi.

[5] Xem xét các chứng cứ khác của vụ án:

[5.1]. Kết quả khám nghiệm hiện trường xác định:

Đoạn đường xảy ra vụ tai nạn tại cầu ST, đoạn km 26 + 315, tỉnh lộ 624, thuộc địa phận thôn 2, xã LH, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi. Đoạn đường chạy theo phương Đông bắc - Tây nam, đường được trải nhựa bằng phẳng, thẳng, không bị che khuất tầm nhìn, lòng cầu rộng 5,90m, hai bên là chân thành cầu và thành cầu. Chân thành cầu rộng 1m, cao 20cm, thành cầu cao 90cm.

Ly trụ điện thắp sáng không số phía đông làm điểm mốc; lấy mép đường phía đông nam làm điểm chuẩn.

Cách trụ điện thắp sáng không số phía đông về hướng tây 1m70 và cách mép đường phía Đông nam về hướng Tây bắc 2m70 là hình chiếu của tâm đầu trục bên trái bánh trước xe mô tô 72G1-235.07 (số 1), xe này đang ở tư thế nằm ngã nghiêng về bên trái, đầu xe quay về hướng đông nam, đuôi xe quay về hướng Tây bắc. Hình chiếu của tâm đầu trục bên trái bánh sau xe này cách mép đường phía Đông nam về hướng Tây bắc là 3m75.

Cách hình chiếu của tâm đầu trục bên trái bánh sau xe mô tô số 1 về hướng tây 70cm và cách mép đường phía Đông nam về hướng Tây bắc 4m30 là tâm hình chiếu bên phải bánh sau xe mô tô 76P1-01312 (số 2), xe này đang ở tư thế nằm ngã nghiêng bên phải, đầu xe quay về hướng tây, đuôi xe quay về hướng đông. Hình chiếu của tâm đầu trục bên phải bánh trước xe này cách mép đường phía Đông nam về hướng Tây bắc là 4m90.

Cách hình chiếu của tâm đầu trục bánh trước bên trái xe mô tô số 1 về hướng nam 30cm và cách mép đường phía Đông nam về hướng Tây bắc 2m37 là tâm vùng mãnh vỡ nhựa, thủy tinh, dép (số 3), có kích thước (80 x 70) cm.

Cách hình chiếu tâm đầu trục bánh sau bên trái xe mô tô số 1 về hướng Tây nam 55cm và cách mép đường phía Đông nam về hướng Tây bắc 3m83 là tâm vùng dép nhựa (số 4), có kích thước (43 x 17) cm.

Cách hình chiếu tâm đầu trục bánh sau bên phải xe mô tô số 2 về hướng bắc 2m02 và cách mép đường phía Đông nam về hướng tây bắc 5m90 là tâm của chiếc mũ bảo hiểm nằm ngữa (số 5), có kích thước (20 x 27) cm.

Cách hình chiếu của tâm đầu trục bánh trước bên trái xe mô tô số 1 về hướng đông 1m55 và cách mép đường phía Đông nam về hướng Tây bắc 1m78 là tâm vùng dịch màu nâu đỏ (nghi là máu) (số 6), có kích thước (90 x 87) cm.

Cách hình chiếu tâm đầu trục bánh sau bên trái xe mô tô số 1 về hướng Đông bắc 50cm và cách mép đường phía Đông nam về hướng Tây bắc 3m80 là đầu phía tây nam của vết chà sát mặt đường có bám dính chất lạ màu nâu đen (số 7), vết vàng dài liên tục 1m10, rộng 3cm; các phần tử bụi, đất, nhựa đường có chiều hướng đùa từ Đông bắc sang Tây nam. Đầu phía Đông bắc của vết này cách mép đường phía Đông nam về hướng Tây bắc là 3m76.

[5.2]. Các kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi xác định:

[5.2.1]. Kết luận giám định số 385/KLGĐ-PC09, ngày 29/3/2019:

Thời điểm xảy ra tai nạn, xe mô tô 76P1-01312 chuyển động theo hướng từ Tây nam sang Đông bắc, xảy ra va chạm với xe mô tô 72G1-235.07 đang chuyển động theo hướng ngược lại. Xe mô tô 76P1-01312 áp sát mặt trước bên phải với xe mô tô 72G1-235.07. Điểm va chạm đầu tiên giữa hai xe là bánh trước xe mô tô 76P1-01312 (vị trí rách cao su ở mặt lăn lốp bánh trước) với đĩa phanh bên phải bánh trước xe mô tô 72G1-235.07 (vị trí cong vênh kim loại trên đĩa phanh trước). sau đó, bánh trước xe 76P1-01312 tiếp tục va chạm vào đầu dưới phuộc trước bên phải xe 72G1-235.07, làm vỡ đầu dưới ống phuộc, với lực va chạm mạnh làm phuộc trước của hai xe bị cong vênh theo hướng từ trước ra sau. Quá trình va chạm, đầu xe 76P1-01312 gập sang phải và xe bị xoay từ hướng Đông bắc sang hướng tây; xe 72G1-235.07 bị xoay từ hướng Tây nam sang hướng Đông nam, dẫn đến mặt bên trái xe 76P1-01312 va chạm với mặt bên phải xe 72G1-235.07, tạo ra dấu vết hư hỏng, bể vỡ các bộ phận ở bên trái của xe 76P1-01312 và bên phải xe 72G1-235.07.

Ngay trước khi xảy ra va chạm, người điều khiển xe 72G1-235.07 phanh xe, mặt lăn bánh sau xe chà sát với mặt đường, tạo ra dấu vết chà sát, bám dính chất màu đen trên mặt đường. Sau khi xảy ra va chạm, xe 76P1-01312 bị ngã nghiêng qua bên phải xuống mặt đường; xe 72G1-235.07 bị ngã nghiêng qua bên trái xuống mặt đường.

Như vậy, vị trí va chạm đầu tiên trên mặt đường giữa hai xe là khu vực phía Tây nam đầu tây nam dấu vết chà sát bám dính chất màu đen trên mặt đường, thuộc làn đường phía Tây bắc, tỉnh lộ 624.

Kết luận: Điểm va chạm đầu tiên giữa hai phương tiện là bánh trước xe mô tô 76P1-01312 (vị trí rách cao su ở mặt lăn lốp bánh trước) với đĩa phanh bên phải bánh trước của xe mô tô 72G1-235.07 (vị trí cong vênh kim loại trên đĩa phanh trước); Vị trí va chạm đầu tiên trên mặt đường giữa hai phương tiện là khu vực phía Tây nam đầu Tây nam dấu vết chà sát bám dính chất màu đen trên mặt đường, thuộc làn đường phía Tây bắc tỉnh lộ 624.

Đây là điểm gây tai nạn đầu tiên nằm trên phần đường phía bên trái, theo hướng điều khiển của xe 76P1-01312.

[5.2.2]. Kết luận giám định số 411/KLGĐ-PC09, ngày 12/4/2019:

- Trên yên xe mô tô 76P1-013.12 tiến hành thu vi vết vào ngày 20/3/2019 có bám dính vi vết vải sợi của hai chiếc quần gửi giám định, trong đó:

+ Vi vết vải sợi bám dính tại vị trí ½ phía trước yên xe mô tô 76P1-01312 cùng loại với nguyên liệu sợi dệt của chiếc quần jeans, màu xanh. Đây là chiếc quần của bị cáo H mặc.

+ Vi vết vải sợi bám dính tại vị trí ½ phía sau yên xe mô tô 76P1-01312 cùng loại với nguyên liệu sợi dệt của chiếc quần vải, màu xám. Đây là chiếc quần của anh Ho mặc.

[6] Khẳng định việc phạm tội của bị cáo:

Sự khai nhận tội của bị cáo H ở trên hoàn toàn phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với các chứng cứ trong hồ sơ vụ án nêu trên và các chứng cứ khác, phù hợp với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát, phù hợp với tất cả các tình tiết trong vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà.

Thy rằng, bị cáo H là người chưa có giấy phép lái xe mô tô (chưa đủ điều kiện để điều khiển xe), biết rõ mình đang trong tình trạng sử dụng rượu bia rất nhiều (nồng độ cồn trong máu vượt quá xa mức quy định là chỉ số nồng độ Ethanol 191mg/100ml, theo Bản kết luận giám định hóa pháp số 17/HP, ngày 15/3/2019 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Quảng Ngãi), mà vẫn thực hiện hành vi trực tiếp điều khiển xe mô tô tham gia giao thông, đi bên trái theo chiều đi của mình, đi không đúng làn đường, phần đường quy định, gây tai nạn làm chết anh S.

Hành vi của bị cáo đã vi phạm các khoản 8, khoản 9 Điều 8, khoản 1 Điều 9 Luật giao thông đường bộ năm 2008, gây hậu quả rất nghiêm trọng, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a, b khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 sa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó nhận thấy, việc truy tố bị cáo H về tội danh, điều luật áp dụng và quan điểm nêu trên của đại diện Viện Kiểm sát là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật, nên được chấp nhận.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông, trực tiếp xâm hại đến tính mạng của người khác, biểu hiện ý thức xem thường quy tắc sống của xã hội, kỷ cương pháp luật của Nhà nước. Do đó, cần thiết buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định (theo quy định tại khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự), để có tác dụng giáo dục, răn đe và đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

[7] Về việc vận dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt, xác định:

Quá trình tố tụng và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho gia đình người bị hại; đại diện hợp pháp của người bị hại có yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; ông nội bị cáo là người có công với Cách mạng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được xét áp dụng cho bị cáo theo điểm b, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng và có đặc điểm nhân thân tốt.

Do đó, áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự để quyết định mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (khoản 2), trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn (khoản 1) của Điều 260 Bộ luật hình sự, khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự mà người bào chữa, bị cáo và đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng cho bị cáo, là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên được chấp nhận giải quyết.

Tuy nhiên, vấn đề người bào chữa đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, là không phù hợp với quy định pháp luật, vì quá trình tố tụng, bị cáo hoàn toàn không có hành vi nào thể hiện mình là người tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm mới hoặc đồng phạm khác trong quá trình giải quyết vụ án, nên không được chấp nhận giải quyết.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của bị hại là chị T không yêu cầu bị cáo và người có nghĩa vụ liên quan phải bồi thường khoản nào khác, kể cả bồi thường thiệt hại về tài sản bị thiệt hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Ho cũng không yều cầu bị cáo phải bồi thường khoản thiệt hại gì về tài sản của mình là chiếc xe mô tô biển kiểm soát 76P1-01312, nên không giải quyết;

[9 Về xử lý vật chứng:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tch thu, tiêu hủy 01 (một) mũ bảo hiểm màu đen; 01 (một) đôi dép nhựa màu trắng có ghi chữ Bonus; 01 (một) đôi dép da nữ màu nâu; 01 (một) đôi dép da nam (loại dây đai, có đế màu đen, dây đai màu nâu có ghi chữ Tiến Toàn); 01 (một) mũ lưỡi trai màu đen; 01 (một) mũ lưỡi trai màu đỏ; 01 (một) quần vải màu xám (trên lưng quần có tem mạc nhãn hiệu ghi Mifassy; 01 (một) áo sơ mi màu đen (kẻ sọc trắng, trên cổ áo có tem mạc nhãn hiệu ghi Q&m Fashion; 01 (một) quần Jean màu xanh bạc (trên lưng quần có tem mạc nhãn hiệu ghi New Classix Versace); 01 (một) áo thun màu đen (trên cổ áo có tem mạc nhãn hiệu ghi Langshou, bị thủng 02 (hai) lổ ở phần ngực áo bên phải, nách áo phải bị rách toạc).

- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Trả lại cho anh Đinh Văn Ho 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 76P1-01312 (nhãn hiệu Yamaha, số loại Exciter màu sơn xanh- trắng- đen); 01 (một) Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển kiểm soát 76P1-01312, đứng tên đăng ký Huỳnh Thế A và hồ sơ mua bán xe;

+ Trả lại cho chị Lê Thanh T 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 72G1-235.07 (nhãn hiệu Honda, số loại Wave RSX, màu sơn đỏ- trắng).

Vì hai xe mô tô trên không phải là vật chứng.

(Các vật chứng trên và hai xe mô tô đang lưu tại kho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Minh Long, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/8/2019 của Công an huyện Minh Long và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Minh Long);

[10] Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo H được xét miễn án phí hình sự sơ thẩm, vì là người đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, theo quy định của Chính phủ (theo xác nhận của Ủy ban nhân dân xã LM, huyện M).

[11] Tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Đinh H phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường ộ".

- Áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 260; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 13; Điều 38; khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Đinh H 12 ( ười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày đi chấp hành án.

* Về ử l vật chứng:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tch thu, tiêu hủy 01 (một) mũ bảo hiểm màu đen; 01 (một) đôi dép nhựa màu trắng có ghi chữ Bonus; 01 (một) đôi dép da nữ màu nâu; 01 (một) đôi dép da nam (loại dây đai, có đế màu đen, dây đai màu nâu có ghi chữ Tiến Toàn); 01 (một) mũ lưỡi trai màu đen; 01 (một) mũ lưỡi trai màu đỏ; 01 (một) quần vải màu xám (trên lưng quần có tem mạc nhãn hiệu ghi Mifassy; 01 (một) áo sơ mi màu đen (kẻ sọc trắng, trên cổ áo có tem mạc nhãn hiệu ghi Q&m Fashion; 01 (một) quần Jean màu xanh bạc (trên lưng quần có tem mạc nhãn hiệu ghi New Classix Versace); 01 (một) áo thun màu đen (trên cổ áo có tem mạc nhãn hiệu ghi Langshou, bị thủng 02 (hai) lổ ở phần ngực áo bên phải, nách áo phải bị rách toạc).

- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Trả lại cho anh Đinh Văn Ho 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 76P1-01312 (nhãn hiệu Yamaha, số loại Exciter màu sơn xanh- trắng- đen); 01 (một) Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển kiểm soát 76P1-01312, đứng tên đăng ký Huỳnh Thế An và hồ sơ mua bán xe;

+ Trả lại cho chị Lê Thanh T 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 72G1-235.07 (nhãn hiệu Honda, số loại Wave RSX, màu sơn đỏ- trắng).

(Các vật chứng trên đang lưu tại kho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Minh Long);

*Về án phí hình sự sơ thẩm:

Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo H được miễn án phí hình sự sơ thẩm, vì là người đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, theo quy định của Chính phủ.

Án xử sơ thẩm, bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến mình, trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 02/2019/HS-ST ngày 25/10/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:02/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Minh Long - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;