Bản án 02/2019/HS-ST ngày 23/12/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HOÁ, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 02/2019/HS-ST NGÀY 23/12/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 406/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2019/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo:

Hoàng Văn T, sinh năm 1984 tại Thanh Hóa, Nơi ĐKHKTT: Thôn Uy B, xã Quảng N, huyện Quảng X, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn T và bà Hoàng Thị T; tiền án:

- Ngày 05/5/2005, Tòa án nhân dân huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

- Ngày 12/02/2007, Tòa án nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam xử phạt 21 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

- Ngày 10/5/2007, Tòa án nhân dân huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” bị cáo chấp hành xong án phạt tù ngày 17/01/2009;

- Ngày 25/7/2009, Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng xử phạt 10 năm tù về tội “Cướp tài sản”, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/01/2018;

Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/7/2019, đến ngày 22/7/2019 chuyển tạm giam.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Bùi Văn Đ - Sinh năm 1992. (Vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn Khe K, xã Thượng N, huyện Như X, tỉnh Thanh Hóa.

Anh Lưu Văn P – Sinh năm 1994. (Vắng mặt)

Địa chỉ: Xã Mỹ L, huyện Hậu L, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 07 giờ ngày 09/6/2019, Hoàng Văn T đi xe buýt từ thành phố Thanh Hóa đến xã Thượng N, huyện Như X, tỉnh Thanh Hóa tìm bạn là Quách Thị T ở thôn M 2, xã Xuân T, huyện Như T, tỉnh Thanh Hóa. Khi đi qua nhà anh Bùi Văn Đ, sinh năm 1992 ở thôn Khe K, xã Thượng N, huyện Như X, tỉnh Thanh Hóa thì Trung phát hiện tại hiên nhà anh Đ có 01 xe mô tô nhãn hiệu Exciter biển kiểm soát 36K3 – 084.02 để trước hiên nhà không khóa cổ xe, không có người trông coi. T nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe nên đi vào dắt chiếc xe mô tô ra ngoài cổng, sau đó T tìm 01 sợi dây thép ly đấu vào đầu rơ le ở dưới mặt nạ của xe để mở nguồn, T đề nổ máy chiếc xe và chạy thẳng về phòng trọ của mình ở phường Đông H, thành phố Thanh Hóa cất dấu xe vào phòng trọ rồi tháo biển kiểm soát. Đến ngày 21/6/2019, T điều khiển chiếc xe đã trộm cắp được của anh Bùi Văn Đ đi đến thôn M 2, xã Xuân T, huyện Như T, tỉnh Thanh Hóa để tìm chị Quách Thị T, tại đây T bị gia đình chị T đuổi đánh nên bỏ chạy và để lại chiếc xe rồi chạy về thành phố Thanh Hóa. Chiếc xe trên đã được Công an xã Xuân T, huyện Như T tạm giữ, bàn giao lại cho Cơ quan Cảnh sát điều tra huyện Như X.

Ngày 26/6/2019, Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Như X tiến hành định giá chiếc xe mô tô Exciter màu xanh xám, biển kiểm soát 36K3 – 084.02 có giá trị 41.650.000đ. Ngày 31/7/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Như X đã tiến hành trả lại chiếc xe cho bị hại là anh Bùi Văn Đ.

Ngoài ra, khoảng 19 giờ ngày 12/7/2019, Hoàng Văn T đi bộ từ phòng trọ của mình ở 21/147/601 Hàm N, phường Đông H, thành phố T đến Bệnh viện Nhi Thanh Hóa ở phường Đông V, thành phố Thanh Hóa với mục đích trộm cắp tài sản. T đi thẳng vào khu nhà để xe của bệnh viện, rồi vòng về phía cuối bãi để xe thì thấy một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Exciter màu xanh bạc, biển kiểm soát 36B4 – 97966 của anh Lưu Văn P, sinh năm 1994 ở xã Mỹ L, huyện Hậu L, tỉnh Thanh Hóa dựng trong bãi để xe. T đã dùng sợi dây thép ly đấu vào đầu rơ le nằm dưới mặt nạ trước của xe để mở nguồn. Sau khi mở được nguồn điện, T ngồi chờ đến 03 giờ ngày 13/7/2019, đợi lực lượng bảo vệ đi ngủ không có ai trông coi thì T dắt xe ra ngoài và điều khiển chiếc xe trộm cắp được đi thẳng về phòng trọ của mình ở phường Đông H, thành phố Thanh Hóa để cất dấu. Đến ngày 19/7/2019, T đến cơ quan điều tra đầu thú, khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Ngày 22/7/2019, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thanh Hóa tiến hành định giá chiếc xe mô tô nhãn hiệu Exciter màu xanh bạc, biển kiểm soát 36B4 – 97966 có giá trị 29.400.000đ. Ngày 30/8/2019, Cơ quan điều tra Công an thành phố Thanh Hóa đã trả lại chiếc xe cho bị hại là anh Lưu Văn P.

Tại bản cáo trạng số 375/CT-VKSTP ngày 19/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hoá đã truy tố bị cáo Hoàng Văn T về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như bản cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ: điểm c, g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật hình sự đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 04 năm 06 tháng tù đến 05 năm tù.

Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung truy tố của cáo trạng và không có ý kiến tranh luận, lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa hôm nay Hoàng Văn T khai nhận: Do có mục đích chiếm đoạt tài sản nên khoảng 07 giờ ngày 09/6/2019, tại thôn Khe K, xã Thượng N, huyện Như X, tỉnh Thanh Hóa, bị cáo đã lợi dụng sơ hở của chủ tài sản, lén lút chiếm đoạt của anh Bùi Văn Đ chiếc xe mô tô nhãn hiệu Exciter biển kiểm soát 36K3 – 084.02, trị giá 41.650.000đ. Đến ngày 13/7/2019, tại nhà để xe của Bệnh viện nhi Thanh Hóa, bị cáo lại tiếp tục trộm cắp của anh Lưu Văn P chiếc xe mô tô tô nhãn hiệu Exciter màu xanh bạc, biển kiểm soát 36B4 – 97966 có giá trị 29.400.000đ. Tổng giá trị tài sản bị cáo đã chiếm đoạt là 71.050.000đ. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo, bị hại tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét, thẩm tra tại phiên tòa.

Tại bản án số 47/2009/HSST ngày 27/7/2009 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, bị cáo đã bị kết án do tái phạm nguy hiểm chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với tình tiết định khung “Tái phạm nguy hiểm” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi nêu trên của bị cáo có đủ dấu hiệu cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và khung hình phạt được qui định tại điểm c, g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã lợi dụng sơ hở của người bị hại trong quản lý tài sản để lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, thể hiện bị cáo là người rất liều lĩnh và táo bạo, coi thường pháp luật, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội.

[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thấy rằng:

Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã có nhiều tiền án về các tội xâm phạm sở hữu, sau khi chấp hành án trở về hòa nhập với cuộc sống cộng đồng bị cáo không lấy đó làm bài học rút kinh nghiệm, rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục dấn thân vào con đường phạm tội.

Trong một khoảng thời gian ngắn, bị cáo đã hai lần thực hiện hành vi phạm tội vì vậy bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Tuy nhiên, quá trình điều tra, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, sau khi nhận thức được việc làm của mình là vi phạm pháp luật bị cáo đã đến cơ quan công an để đầu thú. Vì vậy nên áp dụng quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian như vậy mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 6; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: điểm c, g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 6; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Hoàng Văn T 04 năm 06 tháng ( bốn năm sáu tháng) tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 19/7/2019. Án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 7, điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận (hoặc ngày niêm yết) bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 02/2019/HS-ST ngày 23/12/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:02/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;