Bản án 02/2019/HS-ST ngày 23/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 02/2019/HS-ST NGÀY 23/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Điện Biên mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 02/TLST-HS ngày 21/12/2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2019/QĐXXST-HS ngày 11/01/2019 đối với:

Bị cáo Lờ A P; Tên gọi khác: Không; Sinh năm 1966 tại huyện S, tỉnh Lai Châu; Nơi cư trú: Bản P1, xã B, huyện L, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm nương; Trình độ học vấn: Không; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lờ A S (đã chết) và bà Sùng Thị D (đã chết); Bị cáo có vợ là Vàng Thị T sinh năm 1969 và có 03 con; Tiền sự, tiền án: Không; Nhân thân: Ngày 22/9/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Mường Chà xử phạt 24 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", ngày 27/02/2015 đã chấp hành xong bản. Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/9/2018 cho tới nay về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 19 giờ 15 phút, ngày 26/9/2018, tổ công tác Công an huyện L phối hợp với Công an xã B làm nhiệm vụ tại khu vực bản Nậm Chim 1, xã B, huyện L, tỉnh Điện Biên phát hiện bắt quả tang Lờ A P đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thấy tổ công tác Lờ A P đã thả gói ma túy vừa mua xuống đất, tổ công tác yêu cầu P nhặt lên giao nộp cho tổ công tác. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng gồm: 01 gói giấy bạc màu vàng mở ra bên trong có 02 gói nilon màu hồng chứa chất bột dạng nén màu trắng đục (nghi là Heroine), đưa về cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L để điều tra làm  rõ, xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại cơ quan điều tra Lờ A P khai nhận: 02 gói vật chứng bị bắt giữ quả tang trên là Heroine, P mua của người đàn ông dân tộc Thái không biết tên, tuổi địa chỉ của người đó ở đâu tại khu vực địa phận bản Nậm Chim 1, xã B, huyện L, tỉnh Điện Biên, với số tiền là 200.000 đồng. Mục đích P mua ma túy là để tàng trữ để sử dụng cho bản thân vì P là người nghiện ma túy.

Tại Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng và lấy mẫu giám định ngày 28/9/2018 của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L xác định: 02 gói vật chứng nghi là Heroine thu giữ của Lờ A P có tổng khối lượng là 1,12 gam, lấy mẫu gửi giám định là 0,13 gam còn lại là 0,99 gam.

Tại Bản kết luận giám định số: 845/GĐ-PC09, ngày 11/10/2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: "02 mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng của Lờ A P gửi giám định là ma túy: Loại Heroine", khối lượng là 1,12 gam.

Tại bản Cáo trạng số 02/CT-VKSNP ngày 19/12/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện L, tỉnh Điện Biên đã truy tố bị cáo Lờ A P về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Lờ A P đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện L đã truy tố bị cáo.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện L giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lờ A P về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lờ A P từ 24 tháng đến 30 tháng tù; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu: Tiêu huỷ vật chứng của vụ án là Heroine. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Miễn án phí HSST theo quy định của pháp luật đối với bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo Lờ A P nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không có ý kiến tranh luận với luận tội của Viện kiểm sát, bị cáo đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Lờ A P khai nhận hành vi phạm tội của mình là mua ma túy để sử dụng phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; Biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với các tài liệu và chứng cứ khác có trong hồ sơ cũng như bản Cáo trạng. Do đó đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lờ A P phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự như kết luận của Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sự độc quyền quản lý đặc biệt các chất ma tuý của Nhà nước. Mặt khác, hành vi của bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự xã hội trên địa bàn xã B, huyện L. Bản thân bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, để có ma túy sử dụng bị cáo đã mua ma túy tàng trữ sử dụng, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đã và đang đi ngược lại với chủ trương của Đảng, Nhà nước ta trong việc cấm trồng, sử dụng, mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma tuý. Vì vậy, hành vi của bị cáo cần phải được xử lý thật nghiêm minh trước pháp luật để giữ vững kỷ cương của pháp luật góp phần đẩy lùi tội phạm ma tuý trong xã hội và làm gương răn đe giáo dục các đối tượng khác đang và đã có hành vi như bị cáo nhưng chưa bị phát hiện, xử lý.

[4] Về nhân thân: Bị cáo Lờ A P xuất thân trong gia đình lao động nhưng không chịu lao động, sống buông thả nên đã nghiện ma túy. Để có ma túy sử dụng bị cáo đã mua ma túy về tàng trữ để sử dụng. Năm 2013 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện Mường Chà, tỉnh Điện Biên xử phạt tù 24 tháng về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tháng 2 năm 2015 bị cáo chấp hành xong hình phạt trở về địa phương nơi cư trú, bị cáo đã được xóa án tích, đến ngày 26 tháng 9 năm 2018 bị cáo tiếp tục phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, bị bắt tạm giam cho tới nay.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Khi bị bắt giữ bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội và tại phiên toà bị cáo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, gia đình bị cáo khó khăn. Đây cũng là các tình tiết giảm nhẹ được qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Xong cần xử lý bị cáo thật nghiêm minh trước pháp luật, bằng biện pháp cách ly bị cáo ra khỏi cuộc sống xã hội đời thường một thời gian để bị cáo có điều kiện cải tạo bản thân trở thành người có ích cho chính bị cáo và gia đình bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Bị cáo P khai mua heroine của một người đàn ông dân tộc Thái nhưng không biết tên, tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có cơ sở điều tra làm rõ và xử lý, Viện kiểm sát không truy tố, HĐXX không xem xét.

[7] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ vào khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự về hình phạt bổ sung là phạt tiền, HĐXX xét thấy gia đình bị cáo sống tại vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, tài sản gia đình bị cáo không có giá trị (có biên bản xác minh của cơ quan điều tra về tình trạng tài sản thực tế) nên bị cáo không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung là phạt tiền. Vì vậy, HĐXX quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu: Tiêu huỷ vật chứng là thuốc phiện.

[9] Về phần án phí: Tại phiên tòa bị cáo đề nghị HĐXX xét miễn án phí HSST cho bị cáo. Căn cứ vào Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, HĐXX xét thấy bị cáo là người dân tộc thiểu số sống tại vùng kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn nên miễn án phí HSST theo quy định.

[10] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Tuyên bố bị cáo Lờ A P phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

[2]. Áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Lờ A P 20 (Hai mươi) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt 26/9/2018.

[3]. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106/Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu huỷ 0,99 gam Heroine còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định cùng toàn bộ phần nilon, phong bì niêm phong cũ (Theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 20/12/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện L).

[4]. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Toà án ngày 30/12/2016, bị cáo Lờ A P được miễn án phí HSST theo quy định.

[5]. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự,bị cáo Lờ A P được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 23/01/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 02/2019/HS-ST ngày 23/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:02/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Mường Lay - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;