Bản án 02/2019/HSST ngày 21/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 02/2019/HSST NGÀY 21/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 116/2018/HSST ngày 14 tháng 12 năm 2018. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 116/2019/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo: 

Họ và tên: La Văn P, sinh năm 1968 tại B Nơi cư trú: Thôn Đ, xã Đ, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ văn hóa: 02/10; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông La Văn H và bà Đinh Thị T; bị cáo có vợ và 02 người con. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/9/2018 cho đến nay (Có mặt).

- Người làm chứng: Chu Văn H, sinh năm 1993 (Vắng mặt). Địa chỉ: T3, xã Đ10, huyện B, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 27/9/2018, La Văn P đi bộ từ nhà tại thôn Đ, xã xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước đến “Làng Mông” thuộc xã Đ, huyện T, tỉnh Đăk Nông, để mua ma tuý về sử dụng. Trên đường đi P đi nhờ xe của người đi đường đến khu vực dốc đất đen thuộc thôn Đăk Liên, xã Đ thì xuống đi bộ và gặp Chu Văn H (lúc này H đang đi tìm lá thuốc nam để về chữa bệnh) nên P xin đi nhờ. H điều khiển xe mô tô biển số 93H2-29XX chở P tới gần khu vực bờ đập thuộc xã Đ, huyện T thì P nói H dừng xe đợi P. P đi bộ đến gần bờ đập cách chỗ H đứng khoảng 50m rồi mua của một người đàn ông dân tộc Mông (không rõ nhân thân, lai lịch) 100.000đ ma tuý. Sau khi mua xong P cầm gói ma tuý ở tay trái rồi quay lên nhờ H chở ra đường. Cả hai đi tới địa phận thôn Đăk Liên, xã Đ, huyện B thì bị lực lượng Công an kiểm tra. Lúc này P cầm gói ma tuý ném xuống đất. Lực lượng công an tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang thu giữ 02 gói ma tuý.

Tại bản kết luận giám định số 317/2018/GĐKTHS ngày 04/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước xác định: 02 gói nylon gửi giám định là ma tuý, có khối lượng 1,2683 gam, loại Hêroin.

Vật chứng vụ án: Số ma tuý còn lại sau giám định; 01 điện thoại di động hiệu Nokia Cơ quan CSĐT Công an huyện B đã chuyển Chi cục THADS huyện B; Xe mô tô BS: 93H2-29XX thuộc quyền sở hữu của ông Chu Văn Tuân (Cơ quan CSĐT Công an huyện B đã ra quyết định xử lý vật chứng trả cho chủ sở hữu hợp pháp).

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến về vật chứng đã bị thu giữ.

Tại bản cáo trạng số: 02/CT –VKS - BĐ ngày 14/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố bị cáo La Văn P về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát khẳng định nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Về tội danh đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo La Văn P phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”; về hình phạt, áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo La Văn P từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Về án phí buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

Bị cáo La Văn P thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, không có ý kiến tranh luận về tội danh, hình phạt và các vấn đề khác đối với đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng: Bị cáo ăn năn hối cải xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện B, Viện kiểm sát nhân dân huyện B trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Ngày 27/9/2018, La Văn P đến khu vực “Làng Mông” thuộc xã Đ, huyện T, tỉnh Đăk Nông đã mua 02 gói bột màu trắng có trọng lượng 1,2683 gam của một người đàn ông dân tộc Mông không rõ nhân thân lai lịch cất giấu trong nón bảo hiểm với mục đích về sử dụng. Sau khi mua được ma túy bị cáo cất giấu trong người, trên đường đi về nhà thì bị lực lượng chức năng kiểm tra bắt quả tang thu giữ 02 gói ma túy.

Qua giám định chất màu trắng đựng trong 02 gói nylon là ma túy (Heroin), có trọng lượng là 1,2683 gam.

Từ phân tích trên Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở khẳng định hành vi của bị cáo La Văn P đã phạm vào “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định:

1. Người nào tàng trữ chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán,

vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a) ……………………………………………

c) Hêrôin, Cocain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA, có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

Như vậy, nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Đánh giá tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, gây nguy hại rất lớn cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, làm mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên do lối sống buông thả, dẫn đến nghiện ma túy nên mặc dù nhận thức rõ được mọi hành vi liên quan đến ma túy là vi phạm pháp luật, là nguyên nhân có thể gây ra nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác nhưng vẫn cố ý phạm tội.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ Luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Sau khi cân nhắc mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng, Hội đồng xét xử thấy cần xử bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội để giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về vật chứng vụ án: Căn cứ Khoản 1 Điều 47 Bộ Luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015. Cần tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định đựng trong 01 phong bì niêm phong số 317/2018/GĐKTHS ngày 04/10/2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước.

Đối với xe mô tô BS: 93H2-29XX thuộc quyền sở hữu của ông Chu Văn Tuân Cơ quan CSĐT Công an huyện B đã ra quyết định xử lý vật chứng trả cho chủ sở hữu hợp pháp nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Đối với anh Chu Văn H là người cho bị cáo đi nhờ xe. Tuy nhiên, H không biết việc P đi mua ma túy. Do đó, không đủ cơ sở xem xét vai trò đồng phạm về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đối với H.

Đối với người đàn ông dân tộc mông bán ma túy cho bị cáo chưa xác định được nhân thân lai lịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra tách ra tiếp tục điều tra xác minh xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Quan điểm xử lý vụ án của Đại diện Viện kiển sát tham gia phiên tòa về hình phạt là có căn cứ được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố bị cáo La Văn P phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dung điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo La Văn P 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 27/9/2018.

[2] Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tuyên tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định đựng trong 01 phong bì niêm phong số 317/2018/GĐKTHS ngày 04/10/2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước. (Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 0009660 ngày 03/12/2018 giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B và Chi cục thi hành án dân sự huyện B).

[3] Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo La Văn P phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 02/2019/HSST ngày 21/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:02/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;