Bản án 02/2019/HS-ST ngày 15/01/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN CHÂU, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 02/2019/HS-ST NGÀY 15/01/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 15 tháng 01 năm 2019, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thị xã Tân Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 56/2018/TLST-HS ngày 19 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2019/QĐXXST-HS ngày 02/01/2019 đối với các bị cáo:

1. Trần Lâm T, sinh ngày 06/6/1999; nơi sinh: Châu Đốc - An Giang; nơi cư trú (ĐKHKTT): khóm Châu Long 5, phường Châu Phú B, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 9/12; giới tính: nam; dân tộc: kinh; tôn giáo: đạo phật; con ông Trần Lâm Tuấn, sinh năm 1978 và bà Nguyễn Thị Thanh Đ, sinh năm 1979; chưa có gia đình. Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/8/2018 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Thành M, sinh ngày 22/6/1999; nơi sinh: Châu Đốc - An Giang; nơi cư trú (ĐKHKTT): khóm Vĩnh Phú, phường Châu Phú A, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Thợ cắt tóc; trình độ văn hóa: 5/12; giới tính: nam; dân tộc: kinh; tôn giáo: Đạo phật Giáo Hòa Hảo; con ông Nguyễn Văn Thành, sinh năm 1966 và bà Phan Thị Tuyết Mai, sinh năm 1968; chưa có gia đình. Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/8/2018 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3. Võ Thị Ngọc L, sinh ngày 28/02/2002; nơi sinh: Châu Đốc - An Giang; nơi cư trú (ĐKHKTT): khóm Châu Thạnh, phường Châu Phú A, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa: 7/12; giới tính: nữ; dân tộc: kinh; tôn giáo: phật; con ông Võ Thành N, sinh năm 1969 và bà Nguyễn Thị Diệu Nga, sinh năm 1974 (chết); chưa có gia đình. Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giam từ ngày 23/10/2018 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nguyễn Thị Thanh Đ – sinh năm: 1979; Nơi cư trú: Khóm Châu Long 05, phường Châu Phú B, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang. (Có mặt).

Người làm chứngVõ Thế A (Sang), có mặt; Trịnh Minh K (K Móm), có mặt; Nguyễn Minh N, có mặt; Nguyễn Văn Thái H, có mặt; Võ Thị Bé S, vắng mặt; Nguyễn Văn S, vắng mặt;

 Người tham gia tố tụng khác:

- Người đại diện theo pháp luật của bị cáo Võ Thị Ngọc L: Ông Võ Thành N, sinh năm 1969; Nơi cư trú: Khóm Châu Thạnh, phường Châu Phú A, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang; có mặt;

Người bào chữa cho bị cáo L: Bà Lê Hồ Bích Hằng – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung Tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh An Giang, địa chỉ: Số 11a, đường Thủ Khoa Huân, khóm 6, phường Châu Phú A, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang, có mặt.

- Người giám hộ cho người làm chứng em Trịnh Minh K: Bà Võ Thị P, sinh năm 1980; Nơi cư trú tại: Khóm Long Thạnh B, phường Long Thạnh, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang, có mặt;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ ngày 27/8/2018, Trần Lâm T đang ở tại phòng số 205 của khách sạn Đăng Khôi, thuộc ấp Phước Thọ, xã Đa Phước, huyện An Phú, tỉnh An Giang, có người tên Long (không biết họ tên và địa chỉ cụ thể) địa chỉ thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang gọi điện thoại cho T, hỏi mua 40 số ma túy đá và kêu T phân ma túy thành 02 bọc (01 bọc 15 số và 01 bọc 25 số), T đồng ý bán, với giá 3.700.000 đồng và hẹn giao ma túy ở khu vực xã Lê Chánh, thị xã Tân Châu. Sau đó, T lấy bọc ma túy đã mua của người tên Tuấn (không biết họ tên và địa chỉ cụ thể) phân ma túy ra thành 02 bọc, T để 02 bọc ma túy vào gói thuốc lá hiệu Jet, đưa cho Nguyễn Thành M cầm. Sau đó, T điều khiển xe môtô, nhãn hiệu Winner màu đen, biển số 67E1-292.12 đến khu vực xã Lê Chánh, thị xã Tân Châu, để bán ma túy cho Long. Khi T và M đến khu vực ấp Phú Hữu 1, xã Lê Chánh, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang, T và M bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế, Ma túy - Công an thị xã Tân Châu, kiểm tra phát hiện bên trong gói thuốc lá hiệu Jet, mà M đang giữ có 02 bọc nilon chứa tinh thể rắn màu trắng, T và M thừa nhận đây là ma túy đá, T và M đang đi bán cho người tên Long, nên Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế, Ma túy - Công an thị xã Tân Châu, đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T và M.

Cùng ngày, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế, Ma túy - Công an thị xã Tân Châu, kết hợp cùng Công an xã Đa Phước, huyện An Phú tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trần Lâm T tại phòng số 205 của khách sạn Đăng Khôi, thuộc ấp Phước Thọ, xã Đa Phước, huyện An Phú. Tại đây, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế, Ma túy - Công an thị xã Tân Châu, đã thu giữ thêm những vật chứng liên quan và Võ Thị Ngọc L (bạn gái của T).

* Vật chứng thu giữ trong vụ án gồm:

- 01 bọc nilon màu đen, bên trong bọc nilon màu đen, có 01 khăn vải màu xanh và 01 hộp nhôm dùng để đựng kẹo hiệu eslipse màu hồng - xanh, bên trong hộp nhôm có chứa 02 bọc nilon trong suốt hàn kín, bên trong 02 bọc nilon có chứa tinh thể rắn màu trắng (nghi vấn là ma túy do Võ Thị Ngọc L giao nộp vào ngày 27/8/2018).

- 01 gói thuốc lá hiệu Jet, bên trong có 02 bọc nilon trong suốt hàn kín, bên trong bọc nilon có chứa tinh thể rắn màu trắng (nghi vấn là ma túy của Trần Lâm T và Nguyễn Thành M, bắt quả tang vào ngày 27/8/2018).

- 01 xe môtô hiệu Winner, màu đen, biển số 67E1-292.12 và 01 giấy đăng ký xe môtô, tên Nguyễn Thị Thanh Đ (đã qua sử dụng).

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7, màu đen (đã qua sử dụng) của Trần Lâm T

- 01 điện thoại di động hiệu Oppo, màu trắng - vàng (đã qua sử dụng) của Nguyễn Thành M.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5, phía trước màu đen, phía sau màu hồng (đã qua sử dụng) của Võ Thị Ngọc L.

- 01 điện thoại di động hiệu Xphone màu đen - bạc (đã qua sử dụng) của Trần Lâm T.

- 01 điện thoại di động hiệu itel màu đen, bàn phím màu trắng (đã qua sử dụng) của Nguyễn Văn Thái H, đã cầm cho Trần Lâm T.

- 01 đầu sử dụng bình ga mini, màu xanh (đã qua sử dụng).

- 02 bọc nilon, trong suốt, viền đỏ, có rãnh khóa một đầu.

- 01 bọc nilon trong suốt, hàn kín ba đầu.

- 05 bật lửa (02 cái màu trắng, 02 cái màu tím và 01 cái màu xanh) (đã qua sử dụng).

- 01 chai ga mini hiệu Mã màu đỏ (đã qua sử dụng).

- 01 cây kẹp bằng kim loại màu trắng (đã qua sử dụng).

- 02 đoạn ống nhựa, màu cam - sọc trắng (cắt nhọn một đầu).

- 01 co thủy tinh, dung để sử dụng ma túy đá.

- 02 bọc nilon trong suốt, hàn kín ba đầu.

- 10 bọc nilon trong suốt.

- 01 cái khăn vải màu xanh (đã qua sử dụng).

- Tiền Việt Nam: 1.000.000 đồng.

Căn cứ Kết luận giám định số 567/KLGT-PC09 ngày 03/9/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh An Giang, xác định:

Chất tinh thể rắn màu trắng chứa trong 02 (hai) bọc nilon trong suốt hàn kín, được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 4,0956 gam, loại Methamphetamine.

Căn cứ Kết luận giám định số 573/KLGT-PC09 ngày 04/9/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh An Giang, xác định:

Chất tinh thể màu trắng chứa trong 02 (hai) bọc nilon trong suốt hàn kín, được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 1,133 gam, loại Methamphetamine.

Ngày 04/9/2018 và ngày 22/10/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã Tân Châu, đã ra Quyết định khởi tố các bị cáo Trần Lâm T, Nguyễn Thành M và Võ Thị Ngọc L.

Trong quá trình điều tra, các bị cáo Trần Lâm T, Nguyễn Thành M và Võ Thị Ngọc L, khai nhận: T và L do nghiện ma túy đá. T và L bắt đầu bán ma túy từ tháng 6/2018. Sau đó, M cùng tham gia bán ma túy cùng với T và L, đến ngày 27/8/2018, T và M bị Công an thị xã Tân Châu bắt quả tang. Khi T và L bắt đầu bán ma túy, T mua ma túy đá của người tên Tuấn (không biết họ tên và địa chỉ cụ thể) ngụ thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang, được 06 lần, mỗi lần mua 50 số, với giá 3.000.000 đồng. Sau đó, T và L phân ma túy ra thành các bọc nhỏ, để bán lại cho các đối tượng nghiện kiếm lời.

T và L đã bán ma túy cho những người nghiện, như sau: Bán ma túy Võ Thế A và Trịnh M K 05 lần, mỗi lần từ 23 đến 25 số ma túy đá, với giá từ 1.800.000 đồng đến 2.200.000 đồng; bán ma túy cho người tên Long (không biết họ tên và địa chỉ cụ thể), ngụ thị xã Tân Châu, 02 lần, lần thứ nhất bán 10 số ma túy, với giá 1.300.000 đồng; lần thứ hai là vào ngày 27/8/2018, trên đường T và M đi bán ma túy cho Long, thì bị Công an thị xã Tân Châu, bắt quả tang; bán ma túy cho người tên Hoàng (không biết họ tên và địa chỉ cụ thể) 06 - 08 lần, giá 300.000 - 400.000 đồng/lần; bán ma túy cho Nguyễn Văn Thái H 04 lần, giá 200.000 - 300.000 đồng/lần; bán ma túy cho người tên Tú (không biết họ tên và địa chỉ cụ thể), 02 lần, mỗi lần bán với giá từ 600.000 đồng đến 800.000 đồng; bán cho Nguyễn Văn N khoảng12 lần, mỗi lần bán với giá 400.000 đồng. Số tiền bán ma túy, T, L dùng để trả tiền phòng trọ và tiêu xài cá nhân.

Nguyễn Thành M, đã bán ma túy cho những người nghiện như sau: M và T đã bán ma túy cho Nguyễn Văn N 02 lần, giá 400.000 đồng/lần; bán ma túy cho người tên Tú (không biết họ tên và địa chỉ cụ thể), 01 lần, với giá 600.000 đồng. Ngoài ra, M và T đã bán ma túy cho người tên Long (không biết họ tên và địa chỉ cụ thể) ở khu vực xã Lê Chánh, thị xã Tân Châu, 02 lần, lần thứ nhất bán 10 số ma túy, với giá 1.300.000 đồng; lần thứ hai là vào ngày 27/8/2018, T và M tiếp tục đi bán ma túy cho người tên Long, thì bị Công an thị xã Tân Châu, bắt quả tang như nội dung vụ án đã nêu. Ngoài ra, M đã nhiều lần giúp T và L đi giao ma túy cho người nghiện, nhưng M không biết tên và địa chỉ cụ thể. Sau khi giao ma túy xong, T cho M ma túy để sử dụng.

Những người làm chứng trong vụ án trình bày:

Võ Thế A (Sang) khai, Thế A mua ma túy của T 05 lần, từ 23 số đến 25 số/lần để bán lại. Ngày 23/7/2018, Thế A nhắn tin hỏi mua ma túy của T 25 số ma túy và xin chuộc lại điện thoại di động thế chấp lấy ma túy trước đó với giá 2.200.000 đồng. T đồng ý bán ma túy nên Thế A đưa cho K 2.200.000 đồng và kêu qua Châu Đốc mua ma túy của T, Sau khi mua ma túy, K đem ma túy về đưa lại cho Thế A phân ra bán lại và bị bắt.

Trịnh Minh K khai, ngày 23/7/2018, Thế A đưa cho K 2.200.000 đồng và kêu qua Châu Đốc mua ma túy của T để bán lại. K điện thoại cho T và hẹn giao ma túy ở dốc cầu Cồn Tiên (bờ huyện An Phú). Tại điểm hẹn, T đưa ma túy cho K và lấy tiền. K đem ma túy về đưa lại cho Thế A phân ra bán lại và bị bắt.

Nguyễn Minh N khai, N đã mua ma túy của T 14 lần. Trong đó, T trực tiếp bán 10 lần, T chở M bán 02 lần, N trực tiếp đến khách sạn gặp L mua 02 lần, giá 400.000 đồng/lần.

Nguyễn Văn Thái H khai, H mua ma túy của T 02 lần. L trực tiếp bán cho H 01 lần, giá 200.000 đồng nhưng H chỉ đưa 130.000 đồng và đưa thêm điện thoại di động màu đen hiệu itel cho L để lấy ma túy,

Bà Võ Thị Bé S và ông Nguyễn Văn S đồng khai, bà Bé S và ông S chứng kiến lực lượng Công an kiểm tra, bắt quả tang Trần Lâm T và Nguyễn Thành M, trong người có chứa chất bột trắng (nghi vấn ma túy).

Bản Cáo trạng số 03/CT-VKSTC ngày 19 tháng 12 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang đã truy tố các bị cáo Trần Lâm T, Nguyễn Thành M và Võ Thị Ngọc L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định điểm b, c, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, các bị cáo T, M, L khai nhận hành vi mua bán trái phép chất ma túy như lời khai đã thể hiện tại giai đoạn điều tra và đúng như nội dung truy tố của Viện kiểm sát.

Người có quyền lợi và nghã vụ liên quan đến vụ án bà Nguyễn Thị Thanh Đ có lời khai thống nhất như lời khai thể hiện trong hồ sơ ở giai đoạn điều tra. Tuy nhiên, tại phiên tòa bà Đ khai số tiền 1.000.000đ là của bà đưa cho T để trả tiền góp cho chủ nợ. Nay bà yêu cầu xin được nhận lại số tiền trên và 01 xe môtô hiệu Winner, màu đen, biển số 67E1-292.12 và 01 giấy đăng ký xe môtô, tên Nguyễn Thị Thanh Đ mà Trần Lầm T điều khiển vào ngày 27/8/2018, để đi bán ma túy là của bà, bà hoàn toàn không biết nên bà yêu cầu được nhận lại.

Người làm chứng: Võ Thế A (Sang); Trịnh Minh K (K Móm); Nguyễn Minh N; Nguyễn Văn Thái H trình bày phù hợp với nội dung vụ án đã nêu.

Chủ tọa công bố lời khai của người tham gia tố tụng khác vắng mặt. Các bị cáo, đương sự và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến.

Phát biểu quan điểm luận tội, Kiểm sát viên giữ quan điểm truy tố các bị cáo Trần Lâm T, Nguyễn Thành M và Võ Thị Ngọc L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định điểm b, c, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Đề nghị xử lý:

Về trách nhiệm hình sự: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, c, i khoản 2, Điều 251; Điều 17; Điều 38; điểm r,s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự. Riêng bị cáo T, áp dụng thêm điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Trần Lâm T từ 08 năm đến 09 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành M từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”

Áp dụng điểm b, c, I khoản 2 Điều 251; Điều 17; điểm r,s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 91; Điều 101 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Võ Thị Ngọc L từ 04 năm 06 tháng đến 05 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo T và M có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, nên đề nghị HĐXX, không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo. Riêng bị cáo L là người chưa đủ 18 tuổi nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:

- Tịch thu, tiêu hủy toàn bộ ma túy đã hoàn lại sau giám định.

- Tịch thu, tiêu hủy những vật chứng không còn giá trị sử dụng mà Cơ quan Điều tra - Công an thị xã Tân Châu, đã thu giữ trong vụ án gồm:

+ 01 đầu sử dụng bình ga mini, màu xanh (đã qua sử dụng).

+ 02 bọc nilon, trong suốt, viền đỏ, có rãnh khóa một đầu.

+ 01 bọc nilon trong suốt, hàn kín ba đầu.

+ 05 bật lửa (02 cái màu trắng, 02 cái màu tím và 01 cái màu xanh) (đã qua sử dụng).

+ 01 chai ga mini hiệu Mã màu đỏ (đã qua sử dụng).

+ 01 cây kẹp bằng kim loại màu trắng (đã qua sử dụng).

+ 02 đoạn ống nhựa, màu cam - sọc trắng (cắt nhọn một đầu).

+ 01 co thủy tinh, dung để sử dụng ma túy đá.

+ 02 bọc nilon trong suốt, hàn kín ba đầu.

+ 10 bọc nilon trong suốt.

+ 01 cái khăn vải màu xanh (đã qua sử dụng).

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước:

+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7, màu đen (đã qua sử dụng) của Trần Lâm T.

+ 01 điện thoại di động hiệu Xphone màu đen - bạc (đã qua sử dụng) của Trần Lâm T.

+ 01 điện thoại di động hiệu itel màu đen, bàn phím màu trắng (đã qua sử dụng) của Nguyễn Văn Thái H.

- Trả lại:

+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5, phía trước màu đen, phía sau màu hồng (đã qua sử dụng) của Võ Thị Ngọc L.

+ 01 điện thoại di động hiệu Oppo, màu trắng - vàng (đã qua sử dụng) của Nguyễn Thành M.

+ Trả lại cho bà Nguyễn Thị Thanh Đ 01 xe môtô hiệu Winner, màu đen, biển số 67E1-292.12 và 01 giấy đăng ký xe môtô, tên Nguyễn Thị Thanh Đ (đã qua sử dụng), do bị cáo T sử dụng xe mô tô vào việc mua bán trái phép chất ma túy thì bà hoàn toàn không biết.

+ Trả lại số tiền 1.000.000 đồng cho bà Đ do không có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo T.

Quan điểm của người bào chữa cho bị cáo Võ Thị Ngọc L trình bày, thống nhất với tội danh truy tố bị cáo L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung là phạm tội 02 lần trở lên, phạm tội đối với 02 người trở lên, khối lượng Methamphetamine từ 05 gam đến dưới 30 gam. Bị cáo L sinh ra có hoàn cảnh khó khăn, mẹ mất sớm, cha là lao động nghèo. Tại thời điểm phạm tội bị cáo là người chưa thành niên, nhận thức pháp luật có phần hạn chế, nghe theo lời của bị cáo T nên thực hiện hành vi mua bán ma túy. Đề nghị Hội đồng xét xử phạt các bị cáo L từ 04 năm đến 04 năm 06 tháng tù.

Trong phần tranh luận, bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, đồng ý theo Quyết định truy tố và quan điểm luận tội của Viện kiểm sát, không có ý kiến khác.

Bị cáo nói lời sau cùng, xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Thẩm quyền giải quyết vụ án: Các bị cáo Trần Lâm T, Nguyễn Thành M và Võ Thị Ngọc L bị Cơ quan điều tra - Công an thị xã Tân Châu khởi tố về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” bị bắt quả tang tại khu vực xã Lê Chánh, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang.

[2] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã Tân Châu, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại.

[3] Sự vắng mặt của người làm chứng Võ Thị Bé S và Nguyễn Văn S đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt. Tuy nhiên, đã có lời khai trong hồ sơ vụ án, việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử. Căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ .

- Về nội dung:

[1] Hành vi phạm tội: Tại phiên tòa, các bị cáo T và L đồng khai nhận, do nghiện ma túy đá T và L bắt đầu bán ma túy từ tháng 6/2018. Sau đó, M cùng tham gia bán ma túy cùng với T và L, đến ngày 27/8/2018, T và M bị Công an thị xã Tân Châu bắt quả tang. Khi T và L bắt đầu bán ma túy, T mua ma túy đá của người tên Tuấn (không biết họ tên và địa chỉ cụ thể) ngụ thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang, được 06 lần, mỗi lần mua 50 số, với giá 3.000.000 đồng. Sau đó, T và L phân ma túy ra thành các bọc nhỏ, để bán lại cho các đối tượng nghiện kiếm lời. 

T và L đã bán ma túy cho những người nghiện, như sau: Bán ma túy Võ Thế A và Trịnh Minh K 05 lần, mỗi lần từ 23 đến 25 số ma túy đá, giá từ 1.800.000 đồng đến 2.200.000 đồng; bán ma túy cho người tên Long (không biết họ tên và địa chỉ cụ thể), ngụ thị xã Tân Châu, 02 lần, lần thứ nhất bán 10 số ma túy, với giá 1.300.000 đồng; lần thứ hai là vào ngày 27/8/2018, trên đường T và M đi bán ma túy cho Long, thì bị Công an thị xã Tân Châu, bắt quả tang; bán ma túy cho người tên Hoàng (không biết họ tên và địa chỉ cụ thể) 06 - 08 lần, giá 300.000 - 400.000 đồng/lần; bán ma túy cho Nguyễn Văn Thái H 04 lần, giá 200.000 - 300.000 đồng/lần; bán cho người tên Tú (không biết họ tên và địa chỉ cụ thể), 02 lần, giá từ 600.000 đồng đến 800.000 đồng/lần; bán cho Nguyễn Văn N khoảng 12 lần, giá 400.000 đồng/lần. Số tiền bán ma túy, T, L và M dùng để trả tiền phòng trọ và tiêu xài cá nhân.

Nguyễn Thành M, đã bán ma túy cho những người nghiện như sau: M và T đã bán ma túy cho Nguyễn Văn N 02 lần, giá 400.000 đồng/lần; bán ma túy cho người tên Tú (không biết họ tên và địa chỉ cụ thể), 01 lần, giá 600.000 đồng. Ngoài ra, M và T đã bán ma túy cho người tên Long (không biết họ tên và địa chỉ cụ thể) ở khu vực xã Lê Chánh, thị xã Tân Châu, 02 lần, lần thứ nhất bán 10 số ma túy, giá 1.300.000 đồng; lần thứ hai là vào ngày 27/8/2018, T và M tiếp tục đi bán ma túy cho người tên Long, thì bị Công an thị xã Tân Châu, bắt quả tang như nội dung vụ án đã nêu. Bên cạnh đó, M đã nhiều lần giúp T và L đi giao ma túy cho người nghiện, nhưng M không biết tên và địa chỉ cụ thể. Sau khi giao ma túy xong, T cho M ma túy để sử dụng.

Kết luận giám định số 567/KLGT-PC09 ngày 03/9/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh An Giang, xác định: Chất tinh thể rắn màu trắng chứa trong 02 (hai) bọc nilon trong suốt hàn kín, được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 4,0956 gam, loại Methamphetamine.

Kết luận giám định số 573/KLGT-PC09 ngày 04/9/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh An Giang, xác định: Chất tinh thể màu trắng chứa trong 02 (hai) bọc nilon trong suốt hàn kín, được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 1,133 gam, loại Methamphetamine.

Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố; phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 27/8/2018 và biên bản khám xét ngày 28/8/2018 do Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã Tân Châu lập; Kết luận giám định số 567/KLGT-PC09 ngày 03/9/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh An Giang Kết luận giám định số 573/KLGT-PC09 ngày 04/9/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh An Giang, tổng khối lượng 5,2286 gam ma túy loại Methamphetamine; phù hợp với lời khai của Võ Thế A, Trịnh Minh K, Võ Thị Bé S, Nguyễn Văn S; biên bản lời khai và nhận dạng của Nguyễn Văn N, Nguyễn Văn Thái H; phù hợp với các chứng cứ khác được thể hiện trong hồ sơ vụ án.

Các bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, biết rõ việc mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội.

Ma túy là chất gây nghiện, là mầm móng làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm khác nên Nhà nước độc quyền quản lý, đồng thời nghiêm cấm các hoạt động sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển, chiếm đoạt, sử dụng trái phép chất ma túy. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, tiếp tay cho lượng người nghiện ma túy ngày càng tăng, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến công tác đấu tranh phòng, chống tệ nạn ma túy, làm ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội tại địa phương.

Vì vậy, hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” với tình tiết định khung cấu thành tăng nặng “phạm tội 02 lần trở lên”; “đối với 02 người trở lên”; “Methamphetamine có khối lượng 5,2286 gam” được quy định tại điểm b, c, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố các bị cáo T, M và L ra trước phiên tòa và lời buộc tội là có căn cứ, đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Đồng phạm: Các bị cáo T, M và L đồng phạm giảm đơn, các bị cáo cùng nhau thực hiện hành vi mua bán ma túy. Trong đó, bị cáo T (đã thành niên) giữ vai trò chính, chủ động lôi kéo, rủ rê các bị cáo L (người dưới 18 tuổi), bị cáo M cùng thực hiện tội phạm. Các bị cáo cùng nhau thực hiện hành vi mua bán ma túy. Do đó, cần có hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo để đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[3] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo T là người đã thành niên lôi kéo, xúi giục bị cáo L (người dưới 18 tuổi) cùng thực hiện hành vi mua bán ma túy được quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Các bị cáo T, M, L có tình tiết giảm nhẹ ở thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, thuộc thành phần lao động nghèo, nhận thức pháp luật có phần bị hạn chế và các bị cáo cũng tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong quá trình giải quyết vụ án; tự khai báo hành vi phạm tội mua bán trái phép chất ma túy trước đó được quy định tại điểm s, r khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Hình phạt: Hành vi phạm tội của các bị cáo có tính nguy hiểm cao cho xã hội, cần xử lý nghiêm cách ly bị cáo với bên ngoài xã hội trong một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

Riêng bị cáo L khi thực hiện hành vi mua bán ma túy bị cáo chưa đủ 18 tuổi nên áp dụng ¾ mức hình phạt tù mà điều luật quy định.

Các bị cáo T, M không có nghề nghiệp ổn định, hoàn cảnh khó khăn; Bị cáo L (dưới 18 tuổi) nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với lượng ma túy đã thu giữ (vật cấm lưu hành) cùng các vật chứng là công cụ bị cáo dùng để phân lẻ ma túy sử dụng, cất giấu ma túy không còn giá trị sử dụng, xét tịch thu tiêu hủy đối với:

+ 01 (một) hộp niêm phong ghi vụ số: 567/KLGT-PC54, ngày 03/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh An Giang. Có chữ ký Nguyễn Thị Mỹ Hà, Nguyễn Đăng Khoa và Lê Văn Phương;

+ 01 (một) hộp niêm phong ghi vụ số: 573/KLGT-PC54, ngày 04/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh An Giang. Có chữ ký Nguyễn Thị Mỹ Hà, Nguyễn Đăng Khoa và Lê Văn Phương;

- 01 đầu sử dụng bình ga mini, màu xanh (đã qua sử dụng).

- 02 bọc nilon, trong suốt, viền đỏ, có rãnh khóa một đầu.

- 01 bọc nilon trong suốt, hàn kín ba đầu.

- 05 bật lửa (02 cái màu trắng, 02 cái màu tím và 01 cái màu xanh) (đã qua sử dụng).

- 01 chai ga mini hiệu Mã màu đỏ (đã qua sử dụng).

- 01 cây kẹp bằng kim loại màu trắng (đã qua sử dụng).

- 02 đoạn ống nhựa, màu cam - sọc trắng (cắt nhọn một đầu).

- 01 co thủy tinh, dung để sử dụng ma túy đá.

- 02 bọc nilon trong suốt, hàn kín ba đầu.

- 10 bọc nilon trong suốt.

- 01 cái khăn vải màu xanh (đã qua sử dụng).

- Đối với điện thoại:

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 7, màu đen (đã qua sử dụng) của Trần Lâm T.

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Xphone màu đen - bạc (đã qua sử dụng) của Trần Lâm T.

+ 01 điện thoại di động hiệu itel màu đen, bàn phím màu trắng (đã qua sử dụng) của Nguyễn Văn Thái H, H cầm cho bị cáo T do không có tiền trả tiền mua ma túy của T.

Các bị cáo dùng liên lạc, trao đổi trong quá trình mua bán ma túy. Xét, tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

- Đối với:

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo, màu trắng - vàng (đã qua sử dụng) của Nguyễn Thành M.

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 5, phía trước màu đen, phía sau màu hồng (đã qua sử dụng) của Võ Thị Ngọc L.

Bị cáo M và L khai khi mua bán ma túy chỉ dùng điện thoại của bị cáo T để liên lạc chứ không sử dụng điện thoại của bị cáo M và bị cáo L. Xét, trả lại 02 chiếc điện thoại trên cho bị cáo M và bị cáo L.

- Đối với Số tiền Việt Nam: 1.000.000 đồng. T khai số tiền này là của bà Đ đưa cho T để trả tiền góp, nhưng bị cáo chưa kịp trả thì bị bắt. Tại phiên tòa, bà Đ cho rằng số tiền 1.000.000đ là của bà đưa cho T để trả tiền góp cho chủ nợ. Nay bà yêu cầu xin được nhận lại số tiền trên nên HĐXX xét trả lại cho bà Đ số tiền 1.000.000 đồng.

- Đối với chiếc xe mô tô:

+ 01 (một) xe môtô hiệu Winner, màu đen, biển số 67E1-292.12, kèm giấy đăng ký xe môtô, tên Nguyễn Thị Thanh Đ (đã qua sử dụng) mà Trần Lâm T sử dụng vào việc mua bán trái phép chất ma túy, nhưng bà Đ hoàn toàn không biết. Xét, giao trả bà Đ. (Theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Điều tra - Công an thị xã Tân Châu với Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Châu ngày 20/12/2018).

[6] Các vấn đề khác: Đối với, Nguyễn Văn N và Nguyễn Văn Thái H, đã sử dụng trái phép chất ma túy, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã Tân Châu, đề nghị địa phương lập hồ sơ xử lý theo quy định, là phù hợp.

Người tên Long, Hoàng và Tú đã mua ma túy của Trần Lâm T, Võ Thị Ngọc L và Nguyễn Thành M. Do không rõ họ, tên và địa chỉ cụ thể nên Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thị xã Tân Châu tiếp tục làm rõ, xử lý sau là có căn cứ.

Đối với người tên Tuấn đã bán ma túy cho Trần lâm T và Võ Thị Ngọc L. Do không rõ, họ tên và địa chỉ cụ thể, nên Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thị xã Tân Châu, tiếp tục làm rõ sẽ xử lý sau, có cơ sở.

Đối với Võ Thế A và Trịnh Minh K. Hiện nay, Thế A và K đã bị Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thị xã Tân Châu, khởi tố về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, là đúng theo quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Các bị cáo T, M, L, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Theo quy định tại Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Trần Lâm T, Nguyễn Thành M và Võ Thị Ngọc L phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy"

Căn cứ vào điểm b, c, i khoản 2 Điều 251; điểm o khoản 1 Điều 52, điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt

Trần Lâm T 08 năm 06 tháng tù; Thời hạn chấp hành hình phạt của bị cáo được tính kể từ ngày tạm giữ 27/8/2018 (ngày hai mươi bảy, tháng tám, năm hai nghìn không trăm mười tám). 

Căn cứ vào điểm b, c, i khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1,khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt

Nguyễn Thành M 07 năm 06 tháng tù; Thời hạn chấp hành hình phạt của bị cáo được tính kể từ ngày tạm giữ 27/8/2018 (ngày hai mươi bảy, tháng tám, năm hai nghìn không trăm mười tám).

Căn cứ vào điểm b, c, i khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58, Điều 91, Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017

Xử phạt

Võ Thị Ngọc L 04 năm 06 tháng tù ( 06 năm x 3/4); Thời hạn chấp hành hình phạt của bị cáo được tính kể từ ngày tạm giam 23/10/2018 (ngày hai mươi ba, tháng mười, năm hai nghìn không trăm mười tám). 

Căn cứ Điều 46; Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

- Tuyên bố tịch thu, tiêu hủy:

+ 01 (một) hộp niêm phong ghi vụ số: 567/KLGT-PC54, ngày 03/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh An Giang. Có chữ ký Nguyễn Thị Mỹ Hà, Nguyễn Đăng Khoa và Lê Văn Phương;

+ 01 (một) hộp niêm phong ghi vụ số: 573/KLGT-PC54, ngày 04/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh An Giang. Có chữ ký Nguyễn Thị Mỹ Hà, Nguyễn Đăng Khoa và Lê Văn Phương;

+ 01 đầu sử dụng bình ga mini, màu xanh (đã qua sử dụng).

+ 02 bọc nilon, trong suốt, viền đỏ, có rãnh khóa một đầu.

+ 01 bọc nilon trong suốt, hàn kín ba đầu.

+ 05 bật lửa (02 cái màu trắng, 02 cái màu tím và 01 cái màu xanh) (đã qua sử dụng).

+ 01 chai ga mini hiệu Mã màu đỏ (đã qua sử dụng).

+ 01 cây kẹp bằng kim loại màu trắng (đã qua sử dụng).

+ 02 đoạn ống nhựa, màu cam - sọc trắng (cắt nhọn một đầu).

+ 01 co thủy tinh, dung để sử dụng ma túy đá.

+ 02 bọc nilon trong suốt, hàn kín ba đầu.

+ 10 bọc nilon trong suốt.

+ 01 cái khăn vải màu xanh (đã qua sử dụng).

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước:

+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7, màu đen (đã qua sử dụng) của Trần Lâm T.

+ 01 điện thoại di động hiệu Xphone màu đen - bạc (đã qua sử dụng) của Trần Lâm T.

+ 01 điện thoại di động hiệu itel màu đen, bàn phím màu trắng (đã qua sử dụng) của Nguyễn Văn Thái H.

- Trả lại:

+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5, phía trước màu đen, phía sau màu hồng (đã qua sử dụng) của Võ Thị Ngọc L.

+ 01 điện thoại di động hiệu Oppo, màu trắng - vàng (đã qua sử dụng) của Nguyễn Thành M.

+ Trả lại cho bà Nguyễn Thị Thanh Đ số tiền 1.000.000 đồng.

+ Trả lại cho bà Nguyễn Thị Thanh Đ 01 xe môtô hiệu Winner, màu đen, biển số 67E1-292.12 và 01 giấy đăng ký xe môtô, tên Nguyễn Thị Thanh Đ (đã qua sử dụng). (Theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Điều tra - Công an thị xã Tân Châu với Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Châu ngày 20/12/2018).

Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 333, Điều 337 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Các bị cáo Trần Lâm T, Nguyễn Thành M, Võ Thị Ngọc L mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo T, M, L và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thanh Đ có mặt, có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

334
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 02/2019/HS-ST ngày 15/01/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:02/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;