Bản án 02/2019/HS-ST ngày 11/01/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 02/2019/HS-ST NGÀY 11/01/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 11 tháng 01 năm 2019, tại nhà văn hoá xã Quảng Lạc, xã Quảng Lạc, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn mở phiên toà lưu động xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 241/2018/TLST-HS ngày 26/12/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 248/2018/QĐXXST-HS ngày 28/12/2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Quang T, sinh năm 1972, tại Lạng Sơn.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: Số 07/4, đường B, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn;

Trình độ văn hoá: 1/12; nghề nghiệp: Không; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch Việt Nam; con ông Nguyễn Quang C và bà Phạm Thị N (đều đã chết); vợ con: Chưa có;

Nhân thân: Năm 1995 bị Toà án nhân dân thị xã L, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 15 tháng tù về Tội cướp giật tài sản; tiền sự: Không có; tiền án: Ngày 22/11/2000 bị Toà án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xử phạt 15 năm tù về Tội hiếp dâm và cướp tài sản, ngày 20/8/2015 bị Toà án nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 30 tháng tù về Tội cố ý gây thương tích. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 07/11/2018, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lạng Sơn.

- Bị hại: Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1966. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hoá; chỗ ở: Số 16, đường N, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Bà Nguyễn Thị N1. Vắng mặt, không có lý do.

2. Bà Nguyễn Thị T. Vắng mặt, không có lý do.

3. Bà Nguyễn Thị N2. Vắng mặt, không có lý do.

4. Bà Nguyễn Thuý Q. Vắng mặt, không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 11/10/2017, Nguyễn Quang T chấp hành xong hình phạt tù, trở về địa phương, thường xuyên uống rượu, không chịu lao động kiếm sống. Khoảng 15h30 phút ngày 07/11/2018, sau khi đã uống nhiều rượu; Nguyễn Quang T đi bộ đến chỗ bán dừa và mía trên vỉa hè, khu vực ngã tư giao giữa đường P – B, cạnh số nhà 11, đường P, phường H, thành phố L của ông Nguyễn Văn D và nói “bán cho quả dừa, mai trả tiền”, ông Nguyễn Văn D trả lời “cứ lấy đi, khi nào trả cũng được”.

Nguyễn Quang T nghe không rõ, cho rằng ông Nguyễn Văn D không chịu bán nợ nên đã bỏ đi; khi đi được một đoạn Nguyễn Quang T quay lại hỏi ông Nguyễn Văn D “ông vừa nói gì”, ông Nguyễn Văn D trả lời “tôi có nói gì đâu”, giữa hai bên lời qua tiếng lại. Bà Nguyễn Thị N1 (chị gái của Nguyễn Quang T) đang bán rau ở chợ G nhìn thấy đã ra can ngăn, nhưng Nguyễn Quang T không nghe và đi vào trong chỗ bán hàng của ông Nguyễn Văn D rồi dùng tay phải cầm con dao (bằng kim loại, cán gỗ màu nâu, kích thước 37cm x 07cm, lưỡi dao sắc, đầu dao bằng) đứng từ phía sau chém 01 phát từ trên xuống dưới vào phía sau đầu, xuyên qua mũ cối trúng vào vùng đỉnh chẩm bên trái của ông Nguyễn Văn D gây thương tích. Ông Nguyễn Văn D đã bỏ chạy, rồi đến công an thành phố L trình báo sự việc và giao nộp 01 (một) chiếc mũ cối màu xanh, có vết thủng từ ngoài vào trong, dài 06cm x 0,2cm. Tiến cầm dao đi bộ về nhà, chị Nguyễn Thúy Q đã mang con dao ra để ở hàng của ông Nguyễn Văn D; ngay sau đó Nguyễn Quang T đã bị Công an thành phố Lạng Sơn giữ người trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ 02 điện thoại di động.

Tại biên bản số 02118, kiểm tra nồng độ cồn của Nguyễn Quang T lúc 17 giờ 55 phút ngày 07/11/2018, kết luận nồng độ cồn: 1.049 mg/L.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích (bổ sung) số 359/2018/TgT ngày 05/12/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Lạng Sơn, kết luận: Sẹo vết thương đỉnh chẩm bên trái của ông Nguyễn Văn D tỷ lệ 03%.

Tại bản Cáo trạng số: 07/CT-VKS-TT ngày 24/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Quang T về Tội cố ý gây thương tích, theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận sự việc như đã nêu trên và trình bày việc gia đình bị cáo đã chủ động đến nhà bồi thường cho ông Nguyễn Văn D 2.000.000 đồng. Bị hại ông Nguyễn Văn D có các lời khai, lời trình bày trùng khớp nội dung sự việc; tại văn bản ngày 04/01/2019 bị hại xác nhận đã được bồi thường đủ, không yêu cầu thêm và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo đồng thời không yêu cầu nhận lại con dao và chiếc mũ cối.

Tại phiên tòa, trong phần luận tội, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn đã giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 134; các Điều 38, 50; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố Nguyễn Quang T phạm Tội cố ý gây thương tích, xử phạt bị cáo từ 24 – 30 tháng tù. Tịch thu, tiêu huỷ vật chứng gồm 01 mũ cối và 01 con dao; trả lại cho bị cáo 02 chiếc điện thoại di động do không liên quan đến hành vi phạm tội. Bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đề nghị luận tội. Trong lời nói sau cùng, bị cáo thể hiện sự ăn năn hối hận về hành vi của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng. Các quyết định, hành vi tố tụng đã thực hiện là hợp pháp. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có khiếu nại đối với quyết định, hành vi của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng.

 [2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người làm chứng, phù hợp với bản kết luận giám định pháp y về thương tích và các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được trong hồ sơ vụ án; xác định: Hồi 15 giờ 30 phút ngày 07/11/2018, tại quán bán mía, dừa trên vỉa hè cạnh số nhà 11 đường P, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Do uống quá nhiều rượu và tức giận vô cớ, Nguyễn Quang T đã có hành vi dùng dao bằng kim loại là hung khí nguy hiểm chém ông Nguyễn Văn D 01 phát từ trên xuống, xuyên qua mũ cối vào vùng bên trái đỉnh chẩm của ông Nguyễn Văn D và gây thương tích 03%. Tại Bản án số: 59/2015/HSST ngày 20/8/2015 của Toà án nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn đã xử phạt Nguyễn Quang T 02 năm 06 tháng tù về Tội cố ý gây thương tích và đã áp dụng tình tiết tái phạm do trước đó bản án năm 2000 của bị cáo chưa được xóa án tích; lần phạm tội này của bị cáo được xác định là tái phạm nguy hiểm theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 53 Bộ luật hình sự.

 [3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thấy rằng, hành vi của bị cáo được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, đã xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất an ninh trật tự xã hội tại địa phương, gây tâm lý bất an trong quần chúng nhân dân. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo không dùng các quy tắc ứng xử thông thường mà dùng biện pháp bạo lực, gây thương tích đối với người khác, thể hiện sự coi thường bất chấp pháp luật. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận bị cáo phạm Tội cố ý gây thương tích theo quy định tại điểm d khoản 2 ( dẫn chiếu đến điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự; bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

 [4] Để quyết định hình phạt ngoài việc xem xét, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của bị cáo, cần phải xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau:

 [5] Về nhân thân: Bị cáo Nguyễn Quang T là người có nhân thân không tốt, đã từng bị xét xử nhiều lần, cụ thể: Năm 1994 bị xử phạt 24 tháng tù về Tội cướp giật tài sản (đã xóa án tích); ngày 22/11/2000 bị xử phạt 15 năm tù về Tội hiếp dâm và cướp tài sản (chưa xóa án tích); ngày 20/8/2015 bị xử phạt 30 tháng tù về Tội cố ý gây thương tích(chưa xóa án tích, tái phạm) nhưng không hối cải, không rèn luyện tu dưỡng bản thân, tiếp tục thực hiện cùng loại tội phạm, thể hiện ý thức coi thường, bất chấp pháp luật.

 [6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

 [7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thực sự thể hiện thái độ ăn năn hối cải; bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho bị hại số tiền 2.000.000 đồng; bị hại có văn bản đề nghị giảm nhẹ hình phạt nên bị cáo được hưởng 03 tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 (01 tình tiết) Điều 51 của Bộ luật hình sự.

 [8] Từ những đánh giá, phân tích nêu trên thấy rằng mặc dù bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ (02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 và 01 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự) nhưng bị cáo là người có nhân thân không tốt, thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm nên cần ấn định hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội trong một khoảng thời gian dài, xét xử trên mức khởi điểm của khung hình phạt mới đủ sức răn đe, giáo dục và cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.

 [9] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và đại diện gia đình đã bồi thường thiệt hại sức khoẻ bị xâm phạm cho bị hại số tiền 2.000.000 đồng, bị hại không yêu cầu bồi thường thêm nên cần công nhận sự tự nguyện, thỏa thuận của đương sự.

 [10] Về xử lý vật chứng: Tang vật của vụ án gồm 01 chiếc mũ cối màu xanh có vết thủng, không còn giá trị sử dụng và 01 con dao là công cụ phạm tội; do bị hại không yêu cầu nhận lại nên cần tịch thu, tiêu hủy. Cần trả lại 02 điện thoại di động của bị cáo do không liên quan đến hành vi phạm tội.

 [11] Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; bị cáo không phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm tương ứng với số tiền phải bồi thường do đã thi hành trước khi xét xử.

 [12] Quan điểm đề nghị luận tội của Đại diện Viện kiểm sát hoàn toàn phù hợp với các đánh giá, phân tích, nhận định nêu trên của Hội đồng xét xử.

 [13] Đề nghị trong lời nói sau cùng của bị cáo đã được Hội đồng xét xử xem xét trong quá trình nghị án và cân nhắc khi quyết định hình phạt.

 [14] Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tội danh và hình phạt.

Căn cứ vào điểm d khoản 2 (dẫn chiếu đến điểm a, khoản 1) Điều 134, các Điều 38, 50; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 (01 tình tiết) Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang T phạm Tội cố ý gây thương tích.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang T: 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 07/11/2018.

2. Nghĩa vụ dân sự: Căn cứ vào Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 584, khoản 1 Điều 585, khoản 1 Điều 586 và Điều 590 Bộ luật Dân sự.

Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự; bị cáo Nguyễn Quang T có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm cho bị hại ông Nguyễn Văn D số tiền 2.000.000đ (hai triệu đồng); xác nhận đã thi hành đủ.

3. Xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, các điểm a, c khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) mũ cối màu xanh có vết thủng từ ngoài vào trong dài 06cm rộng 0,2cm; 01 (một) con dao bằng kim loại cán bằng gỗ màu nâu có kích thước 0,37m x 0,07m, lưỡi dao sắc, đầu dao bằng.

- Trả lại cho Nguyễn Quang T: 01 (một) điện thoại di động hiệu NOKIA X1 màu đen, số IMEI 1 359319/04/882668/0 số IMEI 2: 359319/04/882669/8 đã hỏng; 01 (một) điện thoại di động hiệu MASSTEL, màu đen số IMEI 352121087435671.

4. Án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Quang T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 02/2019/HS-ST ngày 11/01/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:02/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;