Bản án 02/2019/HNGĐ-ST ngày 22/01/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ L, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 02/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/01/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 22 tháng 01 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 262/2018/TLST-HNGĐ, ngày 08 tháng 10 năm 2018, về việc: “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 70/2018/QĐXXST-HNGĐ, ngày 19/12/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 01/2019/QĐST-HNGĐ, ngày 04/01/2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Thùy H, sinh năm 1979. Địa chỉ: Khu phố 4, phường B, thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận. (Có mặt)

2. Bị đơn: Anh Phạm Trường S, sinh năm 1983. Địa chỉ: Khu phố 4, B, thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận. (Vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ly hôn, nuôi con ngày 31/8/2018 và lời khai tại Tòa án nhân dân thị xã La Gi, nguyên đơn chị Lê Thị Thùy H trình bày:

Chị và anh Phạm Trường S tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường B, thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận cấp giấy chứng nhận kết hôn số 47, quyển số 01, ngày 03/5/2007.

Quá trình chung sống, vợ chồng chị hạnh phúc được một thời gian, sau đó thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng chị không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống, vợ chồng không cùng quan điểm. Anh S không quan tâm đến gia đình, thiếu trách nhiệm với vợ con. Đặc biệt là anh S đam mê cá cược bóng đá, đánh bài, tiêu hao tài sản của vợ chồng, gây ra nợ nần. Chị đã tìm nhiều cách để hàn gắn hạnh phúc gia đình nhưng không có kết quả, và hơn một năm nay vợ chồng chị đã sống ly thân, mạnh ai nấy sống, không quan tâm lẫn nhau cho đến nay. Chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa, mục đích hôn nhân không đạt được nên làm đơn khởi kiện để yêu cầu được ly hôn anh Phạm Trường S.

Về con chung: Vợ chồng chị có 01 người con chung tên Phạm Lê Gia T, sinh ngày 30/12/2007; Giới tính: Nam. Cháu T hiện đang sống chung với chị Hương, khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi cháu Phạm Lê Gia T, chị H không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị H không yêu cầu Tòa giải quyết.

Tại phiên tòa hôm nay, chị H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của mình.

Bị đơn anh Phạm Trường S:

Quá trình giải quyết Tòa án đã tiến hành tống đạt, niêm yết giấy triệu tập và các giấy tờ khác hợp lệ theo quy định của pháp luật, nhưng anh S không chấp hành. Qua xác minh thực tế tại địa phương (Biên bản xác minh ngày 20/11/2018 của Toà án thị xã La Gi) thì mâu thuẫn giữa chị H và anh S là có thật. Nguyên nhân mâu thuẫn là do S gây nợ nần cho gia đình, hiện nay anh S không sinh sống ở địa phương, thỉnh thoảng có về thăm gia đình.

Tại phiên tòa hôm nay, anh S vẫn vắng mặt không có lý do.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã La Gi cho rằng:

- Việc tuân theo pháp luật từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử sơ thẩm: Thẩm phán đã chấp hành đúng các quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự; Thẩm quyền thụ lý vụ án, xác định quan hệ pháp luật, tư cách pháp lý và mối quan hệ giữa những người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ, thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu, cấp tống đạt văn bản tố tụng cho người tham gia tố tụng là phù hợp quy định pháp luật; Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử thực hiện đúng phiên tòa sơ thẩm; Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Đương sự đã thực hiện theo quy định.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về hôn nhân: Chị Lê Thị Thuỳ H được ly hôn anh Nguyễn Trường S. Về con chung: Giao cho chị H được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Phạm Lê Gia T, sinh ngày 30/12/2007; Giới tính: Nam. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu nên không giải quyết. Về án phí: Chị H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; Sau khi nghe quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã La Gi, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa, có mặt nguyên đơn chị Lê Thị Thuỳ H. Bị đơn anh Phạm Trường S đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Lê Thị Thuỳ H nộp đơn khởi kiện về việc “Ly hôn, nuôi con”. Bị đơn anh Phạm Trường S có nơi cư trú tại khu phố 4, phường Bình Tân, thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận. Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, yêu cầu khởi kiện của chị H thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận.

Trong quá trình thu thập chứng cứ và tại phiên tòa hôm nay, anh Phạm Trường S không có mặt để giải quyết vụ án, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần. Việc vắng mặt này của anh S được coi là anh S từ bỏ quyền lợi và nghĩa vụ hợp pháp của mình.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Xét, yêu cầu khởi kiện của chị H, Hội đồng xét xử xét thấy: Giữa chị Lê Thị Thuỳ H và anh Phạm Trường S tự nguyện chung sống và có đăng ký kết hôn vào năm 2007 tại UBND phường B, thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận theo Giấy chứng nhận kết hôn số: 47/2007, Quyển số 01, đăng ký ngày 03/5/2007. Vì vậy, hôn nhân của chị Lê Thị Thùy H và anh Phạm Trường S là hợp pháp. Quá trình chung sống, giữa anh chị hạnh phúc được một thời gian thì nảy sinh mâu thuẫn. Theo chị H trình bày nguyên nhân là do anh S chơi cá độ, cờ bạc, gây nợ nần cho gia đình. Mặc dù anh, chị có hòa giải nhưng anh S chỉ hứa mà không thực hiện, vẫn tính nào tật nấy, dẫn đến mâu thuẫn giữa vợ chồng ngày càng trầm trọng. Hiện nay tình cảm của chị H đối với anh S không còn, anh chị không còn sống chung khoảng 01 năm nay, không ai quan tâm đến ai. Tòa án đã tiến hành tống đạt, niêm yết các thủ tục theo quy định của pháp luật, tại phiên tòa anh S vẫn vắng mặt không có lý do. Điều đó chứng tỏ giữa anh chị không có thiện chí hàn gắn, không tìm được giải pháp cụ thể nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Từ những căn cứ trên, nhận thấy mâu thuẫn giữa chị H và anh S đã thật sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chị Lê Thị Thuỳ H được ly hôn anh Phạm Trường S.

[4] Về nuôi con chung: Xét yêu cầu nuôi con của chị H, Hội đồng xét xử xét thấy: Việc giao con cho ai trực tiếp nuôi dưỡng cần phải xem xét đến việc đảm bảo quyền lợi cho con về mọi mặt. Hiện tại, chị H có việc làm, có thu nhập ổn định đảm bảo cho việc nuôi dưỡng và chăm sóc con. Hơn nữa, chị H đang trực tiếp nuôi con chung, chị vẫn đảm bảo việc nuôi con và nguyện vọng của cháu T cũng muốn sống với chị H. Vì vậy, Hội đồng xét xử giao cho chị Lê Thị Thuỳ H được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Phạm Lê Gia T, sinh ngày 30/12/2007; Giới tính: Nam là phù hợp.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về tài sản chung, nợ chung: Chị H không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Chị H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39; Khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271, 273 và 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Các Điều 51, 56, 58, 69, 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016.

Tuyên xử:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Chị Lê Thị Thuỳ H được ly hôn anh Phạm Trường S.

[2] Về nuôi con chung: Buộc anh Phạm Trường S giao con chung là cháu Phạm Lê Gia T, sinh ngày 30/12/2007 cho chị Lê Thị Thùy H trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Phạm Trường S không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh Phạm Trường S có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Để đảm bảo quyền lợi của con chung, anh S được quyền khởi kiện thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn nếu có căn cứ theo quy định pháp luật.

[3] Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Chị Lê Thị Thuỳ H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Nhưng chị H được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng, theo biên lai số 0021936 ngày 03/10/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã La Gi. Chị Lê Thị Thuỳ H đã nộp đủ tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

[5] Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định.

Trường hợp Bản án thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 02/2019/HNGĐ-ST ngày 22/01/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:02/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị Xã La Gi - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;