TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN HÀ, TỈNH QUẢNG NGÃI
BẢN ÁN 02/2019/DS-ST NGÀY 25/09/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN PHÁT SINH TỪ BIÊU
Ngày 25 tháng 9 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Q xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 10/2019/TLST-DS ngày 02/5/2019 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản phát sinh từ biêu” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2019/QĐXXST-DS ngày 28 tháng 8 năm 2019, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thủy T, sinh năm 1964.
Địa chỉ: Xóm T, thôn G, xã S, huyện S, tỉnh Q. Có mặt.
2. Bị đơn: Bà Đỗ Thị Ngọc A, sinh năm 1957.
Địa chỉ: Xóm T, thôn G, xã S, huyện S, tỉnh Q. Có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Bạch Hồng T, sinh năm 1954.
Địa chỉ: Xóm T, thôn G, xã S, huyện S, tỉnh Q. (Vắng mặt lần 02 không có lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 23/4/2019, bản tự khai ngày 03/6/2019, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thủy T trình bày như sau:
Do chỗ quen biết là hàng xóm với nhau và để tạo điều kiện giúp đỡ nhau những lúc khó khăn, nên từ năm 2010 đến năm 2013 bà và các chị em phụ nữ tại địa bàn xã S, tổ chức tham gia góp biêu do bà làm chủ biêu. Trong năm 2013, tại địa bàn xã S xảy ra việc các con biêu đã hốt biêu nhưng không đóng tiền biêu chết nên bà không dám gầy thêm biêu mới mà yêu cầu các con biêu đang tham gia chơi biêu do bà làm chủ biêu cùng với bà tính toán chốt sổ tính nợ. Trong đó có bà Đỗ Thị Ngọc A tham gia 04 dây biêu (02 dây biêu ngày và 02 dây biêu tháng), các dây biêu này bà A đã hốt biêu nên vào ngày 27/7/2013 âm lịch bà và bà A chốt nợ, tổng cộng số tiền bà A còn nợ bà là 66.500.000đồng, bà A hứa sẽ trả dần cho bà. Do đó, bắt đầu từ cuối năm 2013 đến ngày 29/12/2015 bà A đã trả góp dần cho bà nhiều lần được tổng cộng 12.000.000đồng, mãi đến ngày 29/01/2019 âm lịch bà A trả thêm cho bà được 1.000.000đồng, như vậy tổng cộng bà A đã trả cho bà được số tiền 13.000.000đồng, còn nợ lại 53.500.000đồng bà A hứa hẹn hết ngày này sang ngày khác nhưng không trả tiền cho bà. Còn việc chơi biêu cũng như người trực tiếp tham gia đóng tiền biêu, hốt biêu thì chỉ giữa bà với bà A, còn ông Bạch Hồng T là chồng bà A không trực tiếp tham gia chơi nhưng có lúc bà đến trực tiếp nhà ông T bà A để thu tiền biêu thì ông T vẫn biết, hơn nữa số tiền hốt biêu là số tiền lớn, mặc khác mỗi lần hốt biêu bà A đều nói là có việc lo cho gia đình nên ông T cũng phải có trách nhiệm cùng bà A trả nợ cho bà. Do vậy, bà làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Đỗ Thị Ngọc A và ông Bạch Hồng T có nghĩa vụ trả cho bà số tiền biêu chết còn nợ lại là 53.500.000đồng, bà không yêu cầu trả lãi.
Tại bản tự khai ngày 14/5/2019, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bà Đỗ Thị Ngọc A trình bày như sau:
Bà thống nhất toàn bộ lời trình bày của bà Nguyễn Thị Thủy T về việc từ năm 2010 đến 2013 bà có tham gia chơi nhiều dây biêu do bà T làm chủ, quá trình tham gia chơi biêu bà đã hốt hết các chân biêu nên còn nợ lại tiền biêu chết, vào ngày 27/7/2013 âm lịch bà và bà T đã tính toán chốt số tiền biêu chết mà bà còn nợ bà T là 66.500.000 đồng, bà đã góp dần cho bà T đến cuối năm 2015 thì dừng lại vì nhà ở của gia đình bị hư hỏng nặng phải làm lại, do đó kinh tế khó khăn nên bà không trả cho bà T, đến đầu năm 2019 bà bắt đầu tiếp tục trả tiền dần cho bà T, cụ thể vào ngày 29/01/2019 âm lịch bà trả thêm cho bà T được 1.000.000đồng. Tổng cộng bà đã trả cho bà T được 13.000.000đồng, nay còn nợ lại số tiền 53.500.000đồng. Ngoài ra, bà thừa nhận rằng việc chơi biêu là giữa chị em phụ nữ với nhau nên chồng bà là ông Bạch Hồng T không biết cụ thể cũng như không trực tiếp tham gia góp biêu, đóng tiền biêu nhưng số tiền bà hốt biêu là số tiền lớn dùng để trang trãi cuộc sống gia đình nên ông T ít nhiều cũng biết và phải có trách nhiệm cùng bà trả nợ cho bà T. Nay bà T khởi kiện buộc vợ chồng bà phải có nghĩa vụ trả cho bà T số tiền 53.500.000 đồng bà đồng ý có nợ và chấp nhận cùng chồng bà là ông Bạch Hồng T trả nợ cho bà T trong thời gian đến.
Tại bản tự khai ngày 12/5/2019 và ngày 03/6/2019 của ông Bạch Hồng T trình bày như sau:
Ông biết việc bà Nguyễn Thị Thủy T khởi kiện buộc ông và bà Đỗ Thị Ngọc A phải có nghĩa vụ trả nợ số tiền 53.500.000đồng, đây là tiền biêu chết mà vợ ông là bà A đã trực tiếp tham gia chơi biêu từ năm 2010 đến năm 2013 do bà T làm chủ biêu. Mặc dù việc chơi biêu giữa chị em phụ nữ với nhau ông không biết cụ thể, nhưng số tiền mà bà A hốt biêu ít nhiều cũng phục vụ, trang trãi cuộc sống cho gia đình nên nay b à T khởi kiện yêu cầu trả nợ, ông đồng ý cùng vợ là bà A phải có trách nhiệm trả tiền nợ cho bà T.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Thẩm quyền thụ lý, giải quyết: Theo đơn khởi kiện ngày 23/4/2019 và các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thủy T cung cấp có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận định quan hệ tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án giải quyết được quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự. Do đó, Tòa án nhân dân huyện S thụ lý giải quyết vụ án là đúng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]. Quan hệ pháp luật tranh chấp: Qua xem xét tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của các đương sự tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy việc bà Nguyễn Thị Thủy T khởi kiện buộc vợ chồng bà Đỗ Thị Ngọc A và ông Bạch Hồng T phải có nghĩa vụ trả số tiền biêu chết mà bà A đã tham gia chơi biêu từ năm 2010 đến năm 2013 còn nợ lại 53.500.000đồng nên xác định đây là quan hệ tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản” thuộc lĩnh vực “ Họ, hụi, biêu, phường” được quy định tại Điều 463 và Điều 471 của Bộ luật dân sự.
[3]. Ông Bạch Hồng T là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án ông T chỉ cung cấp bản tự khai và trình bày quan điểm là chấp nhận cùng bà A trả nợ số tiền 53.500.000đồng cho bà T, nhưng ông T không tham gia tố tụng tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải mặt dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ. Ngày 28/8/2019 Tòa án tiếp tục tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét số: 02/2019/QĐXXST-DS và giấy triệu tập số: 57/GTT-TA ngày 28/8/2019, theo đó tại phiên tòa ngày 12/9/2019 ông T vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Và tại phiên tòa hôm nay, ông T tiếp tục vắng mặt không có lý do mặt dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ lần thứ hai. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Bạch Hồng T.
[4]. Về tính pháp lý của việc chơi biêu: Hội đồng xét xử xét thấy việc trong khoản thời gian từ năm 2010 đến năm 2013 bà T và các chị em phụ nữ tại địa bàn xã S tổ chức tham gia chơi biêu do bà T làm chủ biêu là hình thức giao dịch về tài sản theo tập quán trên cơ sở thỏa thuận của những người tham gia chơi biêu, bà A cùng các thành viên góp biêu (tiền) và lĩnh (hốt) biêu (tiền) đều thực hiện theo nội dung thỏa thuận không mang tính ép buộc, trên cơ sở tự nguyện tham gia, nhằm mục đích góp tiền vào tương trợ lẫn nhau những lúc khó khăn và không thắc mắc hay khiếu nại gì về cách tổ chức, hình thức góp biêu, lĩnh biêu, mức đóng tiền lãi...Do đó, việc tổ chức chơi biêu của bà T, bà A và các thành viên khác do bà T trực tiếp làm chủ biêu không trái pháp luật và phù hợp theo quy định tại các Điều 7, 8, 17 và Điều 18 Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ và Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2015.
[5]. Xét yêu cầu của bà Nguyễn Thị Thủy T: Buộc vợ chồng bà Đỗ Thị Ngọc A và ông Bạch Hồng T phải có nghĩa vụ trả cho bà số tiền biêu chết còn nợ lại là 53.500.000đồng, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, bà A thừa nhận trong khoản thời gian từ năm 2010 đến năm 2013 bà A có tham gia chơi biêu do bà T làm chủ biêu, vào cuối năm 2013 âm lịch bà T và bà A đã tính toán chốt sổ số tiền còn nợ và bà A đã trả dần cho bà T, hiện nay bà A còn nợ của bà T số tiền 53.500.000đồng (BL 14). Ông T tuy không trực tiếp tham gia chơi biêu nhưng tại bản tự khai ngày 24/5/2019 ông thừa nhận việc bà A chơi biêu và hốt biêu là nhằm mục đích trang trải cuộc sống cho gia đình nên ông T đồng ý cùng bà A có trách nhiệm trả nợ cho bà T là phù hợp với lời khai của bà A và bà T. Do đó, Hội đồng xét xử có căn cứ chấp nhận yêu cầu của bà T, buộc bà A và ông T có trách nhiệm trả cho bà T số tiền 53.000.000đồng là phù hợp với Điều 463, Điều 466, và Điều 471 Bộ luật dân sự; khoản 2 Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và khoản 3 Điều 16, Điều 30 Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27 tháng 11 năm 2006 của Chính phủ.
[6]. Về án phí: Bà Đỗ Thị Ngọc A và ông Bạch Hồng T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm được quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Bà Nguyễn Thị Thủy T không phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm.
[7]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật tại Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 463, Điều 466 và Điều 471 của Bộ luật dân sự; khoản 2 Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Điều 147, Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 7, 8, khoản 3 Điều 16, 17, 18 và Điều 30 Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
- Chấp nhận đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị Thủy T.
- Buộc bà Đỗ Thị Ngọc A và ông Bạch Hồng T có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị Thủy T số tiền 53.500.000 đồng (Năm mươi ba triệu năm trăm nghìn đồng).
- Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Đỗ Thị Ngọc A và ông Bạch Hồng T phải nộp 2.675.000 đồng.
Bà Nguyễn Thị Thủy T được nhận lại số tiền tạm ứng án phí 1.337.500đồng mà bà đã nộp tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số AA/2016/0000266 ngày 02/5/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện S.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật ( đối với các trường hợp Cơ quan Thi hành án có quyền chủ động ra Quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7b Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Các đương sự có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án 02/2019/DS-ST ngày 25/09/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản phát sinh từ biêu
Số hiệu: | 02/2019/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sơn Hà - Quảng Ngãi |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 25/09/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về