Bản án 02/2018/HS-ST ngày 23/01/2018 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H. Y, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 02/2018/HS-ST NGÀY 23/01/2018 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hàm Yên xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số: 55/2017/TLST-HS, ngày 30 tháng 11 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2017/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 12 năm 2017 đối với bị cáo:

Nguyn Tuấn A, sinh ngày 02/4/1995, tại huyện H. Y, tỉnh Tuyên Quang;

Nơi cư trú: Thôn 5, xã P, huyện H. Y, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn Q và bà: Trịnh Thị T; Vợ, con: Chưa có;

Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 04/2012/HSST, ngày 23/02/2012 của Tòa án nhân dân huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang xử phạt Nguyễn Tuấn A 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng về tội Trộm cắp tài sản.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 15/9/2017, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang.(Có mặt).

* Người bị hại:

1. Anh Vương Tuấn A; Sinh năm: 1996;

Nơi ĐKNKTT: Tổ dân phố M, thị trấn Y, huyện H. Y, tỉnh Tuyên Quang; Chỗ ở: Tổ dân phố Q, thị trấn, Y, huyện H. Y, tỉnh Tuyên Quang (có mặt).

* Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Nguyễn Thị Th; Sinh năm: 1986;

Trú quán: Tổ dân phố M, thị trấn Y, huyện H. Y, tỉnh Tuyên Quang (có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Anh Nguyễn Tiến H; Sinh năm: 1991;

Trú quán: Xóm 5, xã M, huyện Y. S, tỉnh Tuyên Quang (có đơn xin xét xử vắng mặt)

3. Anh Nguyễn Thế A; Sinh năm: 1981

Trú quán: Tổ 2, phường T, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang (có đơn xin xét xử vắng mặt).

4. Chị Nguyễn Thị Q; Sinh năm: 1992;

Trú quán: Thôn K, xã L, huyện S. D, tỉnh Tuyên Quang (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Những người làm chứng:

1. Anh Tống Quang H (vắng mặt).

2. Anh Trương Hồng Đ (vắng mặt).

3. Chị Nguyễn Thị T (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ ngày 22/8/2017, Nguyễn Tuấn A trú thôn 5, xã P, huyện H. Y, tỉnh Tuyên Quang, Nguyễn Thị T trú tại thôn 31, xã S, huyện H.Y, Tống Quang H trú tại tổ dân phố T, thị trấn Y, huyện H.Y và Trương Hồng Đ trú tại thôn 1, xã T, huyện H.Y đang chơi điện tử tại quán internet "Ku Mạnh" của ông Cao Xuân M thuộc tổ dân phố Q, thị trấn Y, huyện H.Y thì qua mạng xã hội facebook, Vương Tuấn A (là con ông M) trú tại tổ dân phố Q, thị trấn Y, huyện H.Y rủ Nguyễn Tuấn A, T, H, Đ đi sử dụng ma túy đá, Nguyễn Tuấn A, T, H và Đđồng ý. Sau đó Vương Tuấn A đi xe môtô nhãn hiệu SYM, số loại ATTILA ELI mầu đỏ BKS: 22Y1-058.39 (chiếc xe môtô Vương Tuấn A mượn của chị Nguyễn Thị T trú tại tổ dân phố M, thị trấn Y, huyện H.Y, chị T là dì của Vương Tuấn A) đến và đón Nguyễn Tuấn A, T, H, Đ. Vương Tuấn A đèo Nguyễn Tuấn A, T, và Đ đi trước, H đứng ở cây xăng Km39 chờ. Khi đi đến đường đi vào Trạm thực nghiệm thuộc tổ dân phố Y, thị trấn Y, huyện H.Y thì Vương Tuấn A bảo mọi người xuống xe để Vương Tuấn A quay lại đón H, khi đó Nguyễn Tuấn A nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe môtô của Vương Tuấn A đem cầm cố lấy tiền chi tiêu nên đã nói dối Vương Tuấn A là để Nguyễn Tuấn A điều khiển xe môtô quay lại đón Hi, Vương Tuấn A tin Nguyễn Tuấn A nên đã đưa xe cho Nguyễn Tuấn A. Do đã có ý định chiếm đoạt chiếc xe nên khi đến đón H Nguyễn Tuấn A rủ luôn H đi xuống thành phố Tuyên Quang, nhưng H không đi, nên Nguyễn Tuấn A đưa H về nhà rồi đi xe đến quán cầm đồ của anh Nguyễn Tiến H trú tại xóm 5, xã M, huyện Y. S, tỉnh Tuyên Quang để cầm cố chiếc xe lấy 3.000.000đồng, sau đó Nguyễn Tuấn A đem chơi điện tử hết. Khoảng 20 giờ ngày 23/8/2017, do cần tiền để tiếp tục chơi điện tử, Nguyễn Tuấn A nói với anh H là đem xe đến quán cầm đồ của anh Nguyễn Thế A trú tại tổ 2, phường T, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang để tiếp tục cầm cố chiếc xe với giá cao hơn rồi trả tiền cho anh H, anh H đồng ý. Sau đó anh H đem xe môtô đến quán cầm đồ của anh Nguyễn Thế A cho Nguyễn Tuấn A cầm cố chiếc xe được 5.000.000đồng, Nguyễn Tuấn A trả cho anh H 3.200.000đồng (gồm 3.000.000đồng tiền gốc và 200.000đồng tiền lãi). Số tiền 1.800.000đồng Nguyễn Tuấn A tiếp tục chơi điện tử hết.

Người bị hại anh Vương Tuấn A trình bày: Đêm ngày 22/8/2017 anh mượn xe mô tô hiệu ATTILAELI Biển kiểm soát 22Y1 - 058.39 của chị Nguyễn Thị T (là dì ruột của anh Vương Tuấn A) để đến gặp Nguyễn Tuấn A, Nguyễn Thị T, Tống Quang H và Trương Hồng Đ. Khi gặp nhau Nguyễn Tuấn A có mượn xe của anh để đi đón Tống Quang H, nhưng anh đợi mãi không thấy Nguyễn Tuấn A quay về, sau đó anh biết Nguyễn Tuấn A đã mang xe đi cầm cố nên gia đình anh đến công an huyện H. Y trình báo sự việc.

Những người làm chứng khai phù hợp với lời khai của bị cáo và anh Vương Tuấn A.

Tại Kết luận định giá tài sản số 46/KL-HĐĐG ngày 14/9/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang kết luận: Xe môtô nhãn hiệu SYM, số loại ATTILA ELI mầu đỏ BKS: 22Y1-058.39 có giá trị là: 14.092.000đồng (mười bốn triệu không trăm chín mươi hai nghìn đồng).

Cáo trạng số 57/QĐ-KSĐT, ngày 29/11/2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện H.Y đã truy tố Nguyễn Tuấn A về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999.

Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với Nguyễn Tuấn A theo tội danh đã nêu trong cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố: Nguyễn Tuấn A phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” .

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt: Nguyễn Tuấn A từ 09 (chín) đến 12 (Mười hai) tháng tù.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Tuấn Anh đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố.

Ngoài lời khai nhận tội của bị cáo, hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng lời khai của người bị hại, lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cùng toàn bộ những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ trên đây đã có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 23 giờ ngày 22/8/2017, tại đoạn đường đi vào trạm thực nghiệm thuộc tổ dân phố Y, thị trấn Y, huyện H. Y, tỉnh Tuyên Quang, Nguyễn Tuấn A trú tại thôn 5, xã P, huyện H. Y, tỉnh Tuyên Quang có hành vi lừa đảo anh Vương Tuấn A trú tại tổ dân phố  Q, thị trấn Y, huyện H. Y 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu SYM, số loại ATTILA ELI mầu đỏ BKS: 22Y1-058.39 có giá trị là: 14.092.000đồng (mười bốn triệu không trăm chín mươi hai nghìn đồng).

Hành vi của bị cáo Nguyễn Tuấn A đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015.

Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện H. Y, tỉnh Tuyên Quang truy tố bị cáo về hành vi  “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản tài sản” là đúng người, đúng tội.

[3] Xét về tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây bất bình trong quần chúng nhân dân và gây mất trật tự trị an tại địa  phương. Bị cáo có nhân thân xấu, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 04/2012/HSST ngày 23/02/2012 của Tòa án nhân dân huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang đã xử phạt bị cáo 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”. Nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy cần phải có mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời phòng ngừa tội phạm chung.

Khi lượng hình Hội đồng xét xử thấy rằng: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho người bị hại, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51  Bộ luật hình sự năm 2015, cần áp dụng để lên mức án cho phù hợp.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Anh Vương Tuấn A yêu cầu bị cáo bồi thường chi phí đã bỏ ra để đi tìm xe mô tô với số tiền là 3.000.000đồng, bị cáo đã nhờ gia đình bồi thường xong. Anh Nguyễn Thế A không yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 5.000.000đồng đã bỏ ra để cho cầm cố xe, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]  Về vật chứng: Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra tạm giữ 01 xe môtô nhãn hiệu SYM, số loại ATTILA ELI mầu đỏ BKS: 22Y1-058.39. Ngày 22/9/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hàm Yên đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Nguyễn Thị T, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Đối với anh Nguyễn Tiến H và anh Nguyễn Thế A là người đã cho bị cáo cầm cố chiếc xe môtô, nhưng quá trình điều tra xác định anh Nguyễn Tiến H và anh Nguyễn Thế A không biết xe môtô bị cáo cầm cố là xe môtô do phạm tội mà có, Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý trong vụ án, nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[7] Đối với Vương Tuấn A, Nguyễn Thị T, Tống Quang H và Trương Hồng Đ, quá trình điều tra xác định chưa sử dụng ma túy, nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Tuấn A phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

1. Áp dụng: Khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015:

Xử phạt: Nguyễn Tuấn A 10 (mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (15/9/2017).

2. Áp dụng các Điều 136, 331 và 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015Nghị quyết 326/2016/UBTVQHH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016. Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hay niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 02/2018/HS-ST ngày 23/01/2018 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:02/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Yên - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;