Bản án 02/2018/HSST ngày 11/01/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HƯNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 02/2018/HSST NGÀY 11/01/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 11 tháng 01 năm 2018 tai trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 79/2017/HSST ngày 18 tháng 12 năm 2017 đối với các bị cáo:

1. Phạm Công H, sinh năm 1987

Trú tại: Thôn T, xã Đ, huyện Đông Hưng, Thái Bình.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn Giáo: không.

Văn hóa: 09/12 Nghề nghiệp: Lao động tự do

Bố đẻ Phạm Công H (đã chết); mẹ đẻ Bùi Thị M, sinh năm 1955.

Vợ Nguyễn Thị Hoài T, sinh năm 1988.

Con: Chưa có.

Nhân thân: Còn nhỏ được gia đình nuôi ăn học hết lớp 09/12 sau ở nhà lao động sản xuất. Ngày 22/9/2017 có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị Công an huyện Đông Hưng bắt quả tang.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/9/2017, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đông Hưng. Trích xuất có mặt tại phiên tòa.

2. Nghiêm Quang V, sinh năm 1983

Trú tại: Thôn L, xã Đ, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn Giáo: không.

Văn hóa: 12/12 Nghề nghiệp: Lao động tự do

Bố đẻ Nghiêm Văn V, sinh năm 1954; mẹ đẻ Phí Thị N, sinh năm 1960.

Vợ, con: Chưa.

Nhân thân: Còn nhỏ được gia đình nuôi ăn học hết lớp 12/12 sau ở nhà lao động sản xuất.

- Tại bản án số 40/2007/HSST ngày 24/10/2007 của Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình xử phạt Nghiêm Quang V 09 tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản; ngày 27/4/2008 chấp hành xong hình phạt tù, ngày 09/10/2008 chấp hành xong án phí dân sự sơ thẩm, ngày 07/11/2008 chấp hành xong án phí hình sự sơ thẩm.

- Tại Quyết định 3014/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình ngày 14/12/2009 áp dụng đưa vào cơ sở giáo dục đối với Nghiêm Quang V 24 tháng về việc nhiều lần trộm cắp tài sản và cố ý gây thương tích. Ngày 14/12/2011 chấp hành xong thời hạn đưa vào cơ sở giáo dục.

Năm 2008 bị cáo bị nhiễm HIV hiện đang ở giai đoạn lâm sàng 3, chưa bị nhiễm trùng cơ hội. Ngày 22/9/2017 có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị Công an huyện bắt quả tang.

Tiền sự: Không.

Tiền án: Có 01 tiền án: Tại bản án số 127/2015/HSST ngày 01/9/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xử phạt Nghiêm Quang V 02 năm tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, ngày 31/01/2016 chấp hành xong án phí hình sự sơ thẩm, ngày 27/01/2017 chấp hành xong hình phạt tù.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/9/2017, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình. Trích xuất có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Công H và Nghiêm Quang V đều là bạn quen nhau và đều sử dụng ma túy nên khoảng 12 giờ ngày 22/9/2017 H có nhu cầu sử dụng ma túy nhưng không có phương tiện để đi mua ma túy nên H dùng điện thoại số số sim 0984.***.*** gọi vào số sim 01293.***.*** cho V và nói: “Chở em lên thành phố Thái Bình chơi” (do trước đó V đã chở H lên thành phố Thái Bình để mua ma túy về cùng sử dụng nên H gọi V hiểu ý ngay là chở H đi mua ma túy về cùng sử dụng). V đồng ý bảo H: “Chờ anh tý”. V điều khiển xe môtô (không có BKS) từ nhà đến nhà H, khi gặp H do V mệt nên V bảo H chở V. H chở V lên khu vực cầu C, phường Q, thành phố Thái Bình, H dừng xe bảo V đứng chờ H đi vào một ngõ nhỏ gặp một người đàn ông khoảng 35 tuổi, không biết tên, tuổi, địa chỉ người này hỏi H: “Lấy hàng à” (ý là hỏi H mua ma túy à), H nói: “Vâng” và lấy 100.000 đồng đưa cho người đàn ông, người đàn ông cầm tiền và lấy 01 gói ma túy được gói bằng giấy tráng kim màu trắng đưa cho H, H cầm gói ma túy ở tay trái rồi đi bộ ra chỗ V đang đứng chờ và nói với V: “về thôi”, V hiểu ý là đã mua được ma túy. V chở H về khi đến giáp ranh hai xã Đ và xã M, thành phố Thái Bình H bảo V dừng lại tại một hiệu thuốc tân dược, H vào mua 02 bơm kim tiêm, 02 ống Nôvôcain với giá 6.000 đồng, H cho vào túi áo ngực bên phải và bảo V tiếp tục đi. Khi đến gần nghĩa trang thôn K, xã Đ, H bảo V chở vào khu vực đầu nghĩa trang, sau đó H và V đi bộ vào nghĩa trang một đoạn, H lấy gói ma túy mở ra lấy một nửa cho vào bơm kim tiêm và dùng ống Nôvôcain pha vào để sử dụng bằng hình thức chích. Sử dụng xong H nhặt mảnh giấy có chữ viết ngay bên cạnh bỏ số ma túy còn lại và gói lại và vất mảnh giấy bạc gói ma túy lúc đầu đi. H đưa cho V bảo V sử dụng nhưng V bảo mệt chưa sử dụng bảo H cầm hộ khi về đến nhà sẽ lấy sử dụng. Khi H, V ra chỗ để xe thì bị lực lượng Công an huyện Đông Hưng phát hiện, bắt quả tang. Thu giữ tại túi áo ngực bên phải H 01 gói giấy trắng có chữ viết, kích thước (1x2)cm mở ra bên trong có chất bột màu trắng dạng cục, H khai đó là hêrôin, 01 bơm kim tiêm, 01 ống nôvôcain đã qua sử dụng; Thu giữ của V: 01 điện thoại di động cảm ứng cũ nhãn hiệu OPPO màu trắng có màn hình nứt vỡ, 01 xe mô tô cũ màu nâu kiểu dáng DREAM, không biển kiểm soát.

Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của H và nơi ở của V nhưng không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Tại bản kết luận giám định số 383/KLGĐ-PC54 ngày 26/9/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Mẫu gửi giám định thu trong lòng bàn tay trái của H là hêrôin, có trọng lượng 0,1622 gam.

Tại phiên tòa các bị cáo Phạm Công H và Nghiêm Quang V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên Cáo trạng số 02/KSĐT ngày 15/12/2017 đã truy tố, hành vi của các bị cáo Phạm Công H và Nghiêm Quang V đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999, tuy nhiên Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử:

* Về áp dụng pháp luật và hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (Áp dụng riêng đối với bị cáo Nghiêm Quang V tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h (tái phạm) khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015).

Đề nghị tuyên phạt bị cáo Phạm Công H từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đề nghị tuyên phạt bị cáo Nghiêm Quang V từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

* Ngoài ra còn đề nghị HĐXX giải quyết về vật chứng, án phí của vụ án.

Các bị cáo Phạm Công H và Nghiêm Quang V nói lời sau cùng: Các bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các quy định của pháp luật giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung của vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Hưng, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Xét tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi lẽ: Đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước, gây mất trật tự an ninh an toàn xã hội. Ma túy cũng là nguồn gốc phát sinh các loại bệnh tật và tội phạm nguy hiểm ảnh hưởng đến nòi giống, thuần phong mỹ tục của dân tộc, kéo theo sự xuống cấp về đạo đức xã hội. Tác hại của việc sử dụng trái phép chất ma túy đối với xã hội là rất nặng nề và là nguồn gốc của nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác. Các bị cáo đã nhận thức rõ tác hại và sự nguy hiểm nhưng vẫn không chịu tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà lại mắc nghiện và có hành vi tàng trữ trái phép ma túy, coi thường pháp luật. Vì vậy cần lên cho các bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo, cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục riêng, phòng ngừa tội phạm chung.

Ngoài ra lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với chính lời khai của các bị cáo tại giai đoạn điều tra; phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 22/9/2017; Kết luận giám định số 383/KLGĐ-PC54 ngày 26/9/2017 và lời khai của những người làm chứng ông Vũ Văn Q và ông Vũ Văn T cùng toàn bộ các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ.

Do vậy có đủ cơ sở kết luận các bị cáo đã có hành vi xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về các chất gây nghiện nên khoảng 15 giờ 30 phút ngày 22/9/2017 thuộc địa phân thôn K, xã Đ, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình, các bị cáo Phạm Công H và Nghiêm Quang V đã có hành vi tàng trữ 0,1622 gam ma túy, loại hêrôin với mục đích để sử dụng và bị bắt quả tang. Đây là vụ án đồng phạm giản đơn trong đó bị cáo Phạm Công H là người khởi xướng, V với vai trò là người tiếp nhận ý chí và giúp sức tích cực, do đã có lần H rủ V đi mua ma túy nên V đồng ý ngay, lẽ ra V phải là người can ngăn, khuyên bảo nhưng đã đồng ý cùng H đi mua ma túy về mục đích để cùng sử dụng. Vì vậy các bị cáo đã bị truy tố về hành vi: “Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, tuy nhiên Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018, do vậy cần lên cho các bị cáo mức hình phạt phù với quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuy nhiên khi xem xét, cân nhắc hình phạt HĐXX thấy rằng:

Bị cáo Phạm Công H là người khởi xướng rủ V cùng đi mua ma túy về sử dụng nhưng bị cáo có nhân thân tốt; không có tiền án, tiền sự; bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, ngoài ra tại giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; bố đẻ bị cáo được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhì, là thương binh 4/4 nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, vì vậy cần lên cho bị cáo mức án như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân là phù hợp.

Đối với bị cáo Nghiêm Quang V là đồng phạm cùng với H với vai trò giúp sức, đã tiếp nhận ý chí và đi mua ma túy cùng H, bị cáo có nhân thân xấu, có 01 tiền án về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, chưa được xóa án tích vì vậy bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h (tái phạm) khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, do vậy phải lên cho bị cáo mức án cao hơn đối với bị cáo Phạm Công H. Tuy nhiên tại giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo và bố đẻ bị cáo là thương binh 4/4 nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, vì vậy cũng cần lên cho bị cáo mức án như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân là phù hợp.

Về hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bị cáo Phạm Công H và Nghiêm Quang V tại phiên tòa cho thấy các bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn, các bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy không vì mục đích vụ lợi, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Trong vụ án này:

- Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo H khai mua của một người đàn ông ở khu vực chân cầu C, TP Thái Bình khoảng 35 tuổi không biết tên, địa chỉ. Trên cơ sở điều tra không xác định được cụ thể nên Cơ quan điều tra huyện Đông Hưng không có căn cứ để xử lý là đúng pháp luật.

- Đối với số tiền 100.000 đồng bị cáo H dùng để đi mua ma túy, bị cáo khai do bị cáo lao động mà có nên không truy thu để sung quỹ.

- Đối với chiếc xe mô tô mà V và H chở nhau đi mua ma túy: Quá trình điều tra V khai mua chiếc xe ở bãi phế liệu tại Quảng Ninh với giá 600.000đ, không có giấy tờ mua bán không có giấy tờ xe Cơ quan Công an trưng cầu số khung số máy của xe. Kết luận số 135/KLGĐ-PC54 ngày 07/11/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Xe mô tô gửi giám định là loại xe nữ, nhãn hiệu CPI hàng chữ, hàng số đóng trên khung bị tẩy xóa, chữ, chữ số nguyên thủy không đủ điều kiện kết luận; hàng chữ, chữ số đóng trên thân máy bị tẩy xóa, chữ, chữ số nguyên thủy đọc được là CPI152FMH-00**** do chưa xác định được nguồn gốc nên Cơ quan điều tra tách ra xử lý theo quy định của pháp luật là phù hợp.

- Đối với chiếc điện thoại H dùng liên lạc với V để mua ma túy cùng nhau, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét nơi ở của H nhưng không thu giữ được. Điều tra bà Bùi Thị M mẹ bị cáo H khai vào ngày 22/9/2017 bà không thấy H ở nhà nghĩ H đi chơi, do bực tức nên đã vứt chiếc điện thoại của H đi không nhớ vất ở vị trí nào nên không có căn cứ xử lý.

- Quá trình điều tra H và V cùng khai nhận trước ngày bị bắt khoảng 5 đến 6 ngày V chở H đến khu vực cầu C, thành phố Thái Bình để mua ma túy về nghĩa trang xã Đ để sử dụng chung, tuy nhiên quá trình điều tra không thu giữ được ma túy, không xác định được trọng lượng ma túy nên không có căn cứ xử lý đối với V và H là đúng.

* Về vật chứng: Cần áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 để xử lý:

- Tịch thu, tiêu hủy: 0,1546 gam ma túy hoàn trả lại sau giám định và bao gói thu giữ của bị cáo Phạm Công H và 01 ống nôvôcain, 01 bơm kim tiêm đã qua sử dụng.

- Đối với 01 chiếc điện thoại di động đã cũ nhãn hiệu OPPO thu của bị cáo Nghiêm Quang V, chiếc điện thoại này H đã liên lạc với V mục đích để đi mua ma túy về cùng sử dụng, do vậy là phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu, hóa giá sung công.

Toàn bộ vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhân vật chứng giữa Công an huyện Đông Hưng và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Hưng ngày 15/12/2017.

* Về án phí: Các bị cáo Phạm Công H và Nghiêm Quang V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Phạm Công H và Nghiêm Quang V phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Hình phạt:

* Áp dụng khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Phạm Công H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 22/9/2017.

* Áp dụng khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 50; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nghiêm Quang V 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 22/9/2017.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

- Tịch thu, tiêu hủy: 0,1546 gam ma túy hoàn trả lại sau giám định và bao gói thu giữ của bị cáo Phạm Quang H và 01 ống nôvô cain, 01 bơm kim tiêm đã qua sử dụng.

- Tịch thu, hóa giá sung công: 01 điện thoại di động đã cũ nhãn hiệu OPPO thu của bị cáo Nghiêm Quang V.

Toàn bộ vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhân vật chứng giữa Công an huyện Đông Hưng và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Hưng ngày 15/12/2017.

4. Về án phí:

Các bị cáo Phạm Công H và Nghiêm Quang V mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt các bị cáo báo cho biết bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 02/2018/HSST ngày 11/01/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:02/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hưng - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;