Bản án 02/2018/HSST ngày 08/01/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC QUANG, TỈNH HÀ GIANG

BẢN ÁN 02/2018/HSST NGÀY 08/01/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 01 năm 2017, tại Trụ sở Uỷ ban nhân dân thị trấn V, huyện B, tỉnh Hà Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 36/2017/TLST-HS ngày 22 tháng 11 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41/2017/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 12 năm 2017 đối với bị cáo:

Vũ Hữu H, sinh ngày 09 tháng 10 năm 1985 tại huyện T, Thành phố H; nơi đăng ký HKTT: Thôn A, xã L, huyện T, Thành phố H; chỗ ở hiện nay: Thôn A, xã H, huyện B, tỉnh Hà Giang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Hữu M, sinh năm 1959 và bà Bùi Thị H, sinh năm 1963; có vợ là Phạm Thị G, sinh năm 1985 va có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2014, con nhỏ nhất sinh năm 2016; tiền sự, tiền án: Không; Bị cáo bị bắt ngày 01/9/2017. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bắc Quang. Có mặt

Người làm chứng: Chị Thượng Thúy T, sinh năm 1977; nơi cư trú: Tổ dân phố Q, thị trấn V, huyện B, tỉnh Hà Giang. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 15 phút, ngày 01/9/2017, tại khu vực thôn T, thị trấn V, huyện B, tổ công tác của Công an huyện Bắc Quang phát hiện đối tượng Vũ Hữu H, sinh năm 1985, có dấu hiệu tàng trữ trái phép chất ma túy. Thấy cơ quan Công an kiểm tra Vũ Hữu H liền lấy 01 vỏ bao thuốc lá trong túi quần bên phải đang mặc thả xuống đất tại vị trí H đứng. Tổ công tác tiến hành kiểm tra luôn bao thuốc lá, phát hiện thấy tại bao thuốc lá nhãn hiệu THĂNG LONG có 01 gói giấy nilon hình vuông bên trong có chứa các hạt chất dạng tinh thể được dán trên miệng phía mặt ngoài nghi là ma túy tổng hợp, sau đó kiểm tra bên trong bao thuốc lá thì phát hiện thêm có 01 gói giấy nilon, mở ra bên trong có một lớp giấy trắng đựng chất bột màu trắng nghi là ma túy hêrôin, tiếp tục kiểm tra vị trí xung quanh nơi Vũ Hữu H vứt bao thuốc lá lại phát hiện được 01 gói giấy bóng nilon, mở ra bên trong có một lớp giấy màu nâu nhạt đựng chất bột màu trắng nghi là ma túy hêrôin. Sau đó cơ quan Cảnh sát điều tra tiến hành kiểm tra trên người Vũ Hữu H phát hiện trong túi quần phía sau bên phải có 01 gói giấy bóng nilon, mở ra bên trong có 02 gói giấy trong đó có 01 gói giấy màu nâu nhạt có chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy hêrôin và 01 gói giấy nhựa hình tròn màu xanh nhạt, bên trong có chứa các hạt chất dạng tinh thể nghi là ma túy tổng hợp. Ngoài ra còn thu giữ của Vũ Hữu H 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu xanh đen, đã qua sử dụng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Quang, đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Vũ Hữu H và thu giữ toàn bộ vật chứng để điều tra theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra, Vũ Hữu H khai nhận: Vào khoảng 13 giờ ngày 01/9/2017, do có nhu cầu tìm mua chất ma túy để sử dụng, H đã dùng chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu xanh đen bên trong có lắp số sim 0978.988.730 gọi đến số điện thoại 0977.332.878 của Thượng Thúy T, sinh năm 1977, trú tại tổ dân phố Q, thị trấn V, huyện B để trao đổi mua ma túy, sau khi T nhất trí bán ma túy, H đi bộ từ nhà ở thôn A, xã H, huyện B ra đường quốc lộ 2 để đón xe khách xuống khu vực thị trấn V. Khi đi H mang theo số tiền 710.000 đồng, trong khi chờ đón xe khách, H gặp một người đàn ông điều khiển xe máy đi trên đường, H vẫy xe đi nhờ xuống khu vực thị trấn V, khi đi đến khu vực đường rẽ vào nhà Thượng Thúy T thì H xuống xe đi bộ vào nhà T cách đường quốc lộ II khoảng 100 mét. Vào đến nhà, H thấy có một mình T ở nhà, H đưa cho T 700.000 đồng, sau khi nhận tiền, T đi ra phía gian bếp đằng sau, được khoảng 05 phút thì T quay lại đưa cho H 02 gói, mở ra xem H thấy 01 gói đựng ma túy heroin và 01 gói nilon bên trong đựng các hạt chất dạng tinh thể. Sau khi xem xong H hỏi T đi nhờ vệ sinh, khi vào nhà vệ sinh H đã chia số chất bột màu trắng thành 03 gói và chia các hạt chất dạng tinh thể thành 02 gói, mục đích cất giữ để sử dụng dần, sau đó H đi bộ ra đường quốc lộ II và mua 01 chai nước hết 10.000 đồng; đang chuẩn bị đón xe khách để đi về nhà tại xã H, huyện B thì bị cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Quang phát hiện, bắt giữ cùng với vật chứng.

Ngày 01/9/2017 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Quang đã tiến hành cân tịnh: 01 gói giấy nilon bên trong có chứa các hạt chất dạng tinh thể ký hiệu A1 có trọng lượng 0,04 gam; 01 gói giấy nilon bên trong có 01 lớp giấy trắng đựng chất bột màu trắng ký hiệu A2 có trọng lượng 0,18 gam và 01 gói giấy bóng nilon bên trong có lớp giấy màu nâu nhạt đựng chất bột màu trắng ký hiệu A3 có trọng lượng 0,05 gam; 01 gói giấy nhựa hình tròn màu xanh nhạt, bên trong có chứa các hạt chất dạng tinh thể ký hiệu A4 có trọng lượng 0,05 gam và 01 gói giấy màu nâu nhạt có chứa chất bột màu trắng ký hiệu A5 có trọng lượng 0,08 gam. Tổng trọng lượng chất bột màu trắng ký hiệu A2, A3, A5 thu giữ của Vũ Hữu H là 0,31 gam; tổng trọng lượng các hạt chất dạng tinh thể ký hiệu A1, A4 thu giữ của Vũ Hữu H là 0,09 gam;

Tại Kết luận giám định số: 306/KL-PC54 ngày 08/9/2017 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Hà Giang kết luận:

- Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi giám định ký hiệu A2, A3, A5 là ma túy, loại ma túy Hêrôin.

- Mẫu vật gửi giám định có ký hiệu A1, A4 là chất ma túy, loại ma túy Methamphetamine;

Methamphetamine nằm trong danh mục II, STT: 67 Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ.

Với hành vi trên, tại Cáo trạng số: 42/QĐ-KSĐT ngày 20/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang đã truy tố Vũ Hữu H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Vũ Hữu H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu.

Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang vẫn giữ nguyên quyết định truy tố Vũ Hữu H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Về điều luật áp dụng: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 7 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đề nghị xử phạt bị cáo Vũ Hữu H từ 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù đến 02 (Hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có thu nhập không ổn định nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng, đề nghị căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 xử:

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu xanh đen, đã cũ qua sử dụng

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 vỏ bao thuốc lá, nhãn hiệu THĂNG LONG, màu vàng, đã cũ; 01 sim điện thoại có logo của nhà mạng VIETTEL, số seri 8984048008820617917.

Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Quang với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Quang.

Tại phiên tòa, bị cáo nhất trí với tội danh, điều luật áp dụng và mức hình phạt mà Kiểm sát viên đã đề nghị trong bản luận tội.

Bị cáo lời nói sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo có cơ hội sửa chưa nhưng lôi lầm, sớm trở về với gia đình làm người công dân tốt, có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên của huyện Bắc Quang trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định. Giai đoạn điều tra cũng như tại phiên toà những người tham gia tố tụng trong vụ án không có ý kiến, khiếu nại gì về hành vi, quyết định của các cơ quan, người tiến hành tố tụng. Do đó các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án là hợp pháp.

[2] Về nội dung: Lời khai nhận tội của bị cáo Vũ Hữu H tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản xét nghiệm chất ma túy trong nước tiểu; biên bản khám nghiệm hiện trường; sơ đồ hiện trường; bản ảnh khám nghiệm hiện trường; biên bản mở niêm phong, cân tịnh và lấy mẫu vật chứng gửi giám định và kết luận giám định số 306/KL-PC54 ngày 08/9/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Giang, cung tai liêu khac co trong hồ sơ đã có đủ căn cứ để kết luận: Bị cáo Vũ Hữu H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự 1999.

[2.1] Hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với chất ma tuý, là khách thể được pháp luật hình sự Việt Nam bảo vệ. Các chất ma tuý nói chung và Heroine, Methamphetamine nói riêng là chất gây nghiện, không những huỷ hoại sức khoẻ của người mắc nghiện, mà còn là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật nhưng do lối sống đua đòi, chơi bời coi thường pháp luật nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Sau khi mua được hai loại ma túy, bị cáo đã chia thành những gói nhỏ cất giấu vào bao thuốc lá và túi quần với mục đích mang về để dùng dần, đang trên đường về thì bị phát hiện, bắt giữ. Căn cứ vào kết quả cân tịnh và kết luận giám định thì khối lượng Heroin bị cáo tàng trữ là 0,31 gam và khối lượng Methamphetamine bị cáo tàng trữ là 0,09 gam, do đó cần xử lý bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra để giáo dục bị cáo nói riêng và phòng ngừa chung.

[2.2] Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điều khoản của Bộ luật Hình sự năm 2015 để xét xử theo hướng có lợi cho bị cáo.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo xảy ra trước ngày Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực, nên tại Cáo trạng số: 42/QĐ-KSĐT ngày 20/11/2017 Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang đã truy tố bị cáo theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 là đúng người, đúng tội đúng pháp luật. Tuy nhiên, tại thời điểm xét xử vụ án, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có hiệu lực, sau khi xem xét cùng tội danh “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thì tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 có mức hình phạt tù từ hai năm đến bảy năm, nặng hơn khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 có mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Vì vậy, tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát đã áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù đến 02 (Hai) năm tù là là hoàn toàn phù hợp.

Trong vụ án này, bị cáo Vũ Hữu H đã tàng trữ 02 chất ma túy là Heroin và Methamphetamine, tổng khối lượng của hai chất ma túy mà bị cáo đã tàng trữ trái phép là 0,40 gam. Do đó, căn cứ vào khoản 3 Điều 7 của Bộ luật Hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 để xét xử theo hướng có lợi cho bị cáo.

[2.3] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, thực sự ăn năn hối cải, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, nên cũng được xem xét khi áp dụng mức hình phạt, để thể hiện chính sách khoan hồng đối với bị cáo.

[2.4] Trong vụ án này bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[2.5] Đối với đối tượng bán ma túy, bị cáo đã khai là Thượng Thúy T, sinh năm 1977, trú tại thôn Q, thị trấn V, huyện B. Quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra không thu thập được tài liệu, chứng cứ chứng minh Thượng Thúy T có hành vi bán ma túy cho bị cáo, nên tại phiên tòa Hội đồng xét xử cũng không có cơ sở để xem xét.

[3] Về xử lý vật chứng: Đối với vật chứng đã thu giữ trong vụ án, Hội đồng xét xử, xét thấy: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu xanh đen, cũ đã qua sử dụng, là công cụ, phương tiện bị cáo đã sử dụng có liên quan đến hành vi phạm tội. Cần áp dụng Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử tịch thu, nộp ngân sách nhà nước. Số vật chứng đã thu giữ còn lại gồm: 01 vỏ bao thuốc lá, nhãn hiệu THĂNG LONG, màu vàng, đã cũ; 01 sim điện thoại có logo của nhà mạng VIETTEL, số seri 8984048008820617917, là những vật chứng không có giá trị và không sử dụng được, cần tịch thu, tiêu huỷ theo Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định cua pháp luât.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ hoàn hoản 3 Điều 7, điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Áp dụng các Điều 106, 135, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Điều 3, Điều 6 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1.Tuyên bố bị cáo Vũ Hữu H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy

2. Xử phạt: Bị cáo Vũ Hữu H 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01 tháng 9 năm 2017. Tiếp tục tạm giam bị cáo Vũ Hữu H theo Quyết định tạm giam ngày 08 tháng 01 năm 2018 của Hội đồng xét xử sơ thẩm Toà án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu xanh đen, đã cũ qua sử dụng

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 vỏ bao thuốc lá, nhãn hiệu THĂNG LONG, màu vàng, đã cũ; 01 sim điện thoại có logo của nhà mạng VIETTEL, số seri 8984048008820617917.

Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang ngày 05 tháng 01 năm 2018.

4. Về án phí: Bị cáo Vũ Hữu H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 02/2018/HSST ngày 08/01/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:02/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Quang - Hà Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;