Bản án 02/2018/HS-ST ngày 04/01/2018 về tội hiếp dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO LÂM, TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 02/2018/HS-ST NGÀY 04/01/2018 VỀ TỘI HIẾP DÂM

Trong ngày 04 tháng 01 năm 2018, tại Tòa án nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 25/2017/HSST ngày 13 tháng 12 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2017/HSST- QĐ ngày 25 tháng 12 năm 2017.

Đối với các bị cáo:

1. HOÀNG VĂN Đ, tên gọi khác: Không có; sinh ngày 02 tháng 6 năm 1995 tại M1, B1, tỉnh Cao Bằng; nơi cư trú: Xóm N1, xã M, huyện B1, tỉnh Cao Bằng; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá: 12/12 phổ thông; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn S và bà Lý Thị D; vợ con: Không có; tiền án, tiền sự: Không có; bị bắt, tạm giam ngày 14/9/2017 (Có mặt).

2. CAM VĂN H, tên gọi khác: Không có; sinh ngày 12 tháng 6 năm 1993 tại M1, B1, tỉnh Cao Bằng; nơi cư trú: Xóm N1, xã M1, huyện B1, tỉnh Cao Bằng; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá: 08/12 PT; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Cam Văn B và bà Lộc Thị S; vợ con: Không có; tiền án, tiền sự: Không có; bị bắt, tạm giam ngày 14/9/2017 (Có mặt).

- Người bị hại: Chị Hầu Thị K, sinh năm 1995, trú tại: xóm Đ, xã M, huyện B, tỉnh Cao Bằng (Có mặt).

- Những người làm chứng:

1. Chị: Hoàng Thị P1, sinh năm 2003 (Có mặt).

Nơi cư trú: Xóm Đ, xã M, huyện B, Tỉnh Cao Bằng;

2. Bà: Dương Thị M, sinh năm 1988 (Vắng mặt).

Nơi cư trú: Xóm Đ, xã M, huyện B, Tỉnh Cao Bằng;

3. Bà: Lý Thị P2, sinh năm 1980 (Có mặt).

Nơi cư trú: Xóm Đ, xã M, huyện B, Tỉnh Cao Bằng;

4. Bà: Hoàng Thị S, sinh năm 1992 (Có mặt).

Nơi cư trú: Xóm Đ, xã M, huyện B, Tỉnh Cao Bằng;

5. Ông: Hoàng Văn T, sinh năm 1994 (Vắng mặt).

Nơi cư trú: Xóm Đ, xã M, huyện B, Tỉnh Cao Bằng;

6. Ông: Quan Văn Đ1, sinh năm 1993 (Có mặt).

Nơi cư trú: Xóm N, xã M, huyện B, Tỉnh Cao Bằng.

7. Ông: Sầm Văn L, sinh năm 1995.

Nơi cư trú: Xóm N, xã M, huyện B, tỉnh Cao Bằng (Có mặt).

- Người làm chứng đồng thời là Người đại diện hợp pháp cho Hoàng Thị P1: Bà Sùng Thị X, sinh năm 1979, trú tại: xóm Đ, xã M, huyện B, tỉnh Cao Bằng (Có mặt).

- Người phiên dịch: Ông Dương Văn S, sinh năm 1968

Trú tại: Xóm P, xã N, huện B, tỉnh Cao Bằng (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 14/9/2017 chị Hầu Thị K có đơn trình báo đến Công an huyện Bảo Lâm về việc: Khoảng 03 giờ, ngày 14/9/2017 bị 02 (Hai) đối tượng không quen biết khống chế và sờ xoạng cơ thể, đòi quan hệ tình dục ở bên đường liên xã, thuộc xóm N, xã M, huyện B, tỉnh Cao Bằng. Lúc đó chị K đã phản ứng chống đỡ gay gắt, được cắn vào tay và cầm hòn đá mục đích để phòng vệ, sau đó có xe máy của ông Hoàng Văn T người cùng xóm đi tới gần thì hai đối tượng bỏ chạy không thực hiện được hành vi giao cấu; cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bảo Lâm, Cao Bằng (CQĐT) đưa người bị hại Hầu Thị K đi khám tại Bệnh viện Đa khoa huyện B, Cao Bằng kết quả: Bệnh nhân tỉnh, tiếp xúc tốt, không hoảng loạn tinh thần, toàn thân không có vết xây xước bầm tím; âm hộ, âm đạo không có vết xây xước, bầm tím, không có máu; gãy răng số 2-2, chân răng sâu. Qua xác minh điều tra, CQĐT ra lệnh bắt khẩn cấp đối với Hoàng Văn Đ và Cam Văn H.

Tại CQĐT, các đối tượng Đ và H khai nhận: Khoảng 02 giờ, sáng ngày 14/9/2017 khi đang ngồi uống bia với nhau tại cạnh đường liên xã đoạn đầu cầu xóm N, M thì H nói với Đ là ra xóm N, xã M tìm gái để quan hệ tình dục và được Đ đồng ý. Đ và H đến nhà Quan Văn Đ1 để rủ cùng đi nhưng Đ1 đã ngủ nên cả hai quay lại đường liên xã. H soi đèn pin nhìn thấy 06(Sáu) người phụ nữ gồm các chị Hầu Thị K, Sùng Thị X, Lý Thị P2, Dương Thị M, Hoàng Thị S và cháu Hoàng Thị P1 đang đi bộ ra thị trấn P bán rau nên nảy sinh ý định chặn lại một người để tìm cách quan hệ tình dục. H đến trước mặt chị K (trước ngực cõng con nhỏ 11 tháng tuổi, sau lưng đeo gùi đựng rau xanh) cầm tay giữ lại không cho đi, những người đi cùng chị K bỏ chạy theo hướng thị trấn P. Đ cũng đến gần tay phải cầm vào chiếc gùi giữ chị K. Đ và H cùng nhau dùng tay sờ vào ngực chị K làm chị K hoảng sợ giật tay bỏ chạy theo hướng thị trấn P. H và Đ đuổi theo được khoảng 200m thì kịp chị K và 05 (Năm) người đi cùng. H nói “Không sợ đâu, bọn anh chạy thể dục thôi” H và Đ chạy vượt khoảng 100m rồi quay lại đến đoạn đường có bãi đá hộc và khe nước chảy thuộc xóm N thì gặp lại nhóm của chị K. H vào gần cầm hai tay giữ chị K lại, những người đi cùng chị K tiếp tục bỏ chạy. Đ cũng đến gần dùng tay trái giữ chiếc gùi giúp H khống chế chị K. H nói “tắt đèn đi” và tìm cách giật lấy chiếc đèn pin trên tay chị K nhưng chị K giật tay làm đèn pin trên tay H rơi xuống đất. H dùng tay trái giữ tay chị K còn tay phải thò vào trong áo sờ ngực. Còn Đ dùng tay trái giữ gùi tay phải thò vào trong áo sờ ngực thì bị chị K cúi đầu xuống cắn vào cẳng tay của Đ1 lúc này Đ liền đẩy đầu chị K ra thì lại bị cắn vào cẳng tay trái. Chị K giằng co tìm cách thoát nhưng bị H và Đ giữ lại dùng tay nhấn ngồi xuống đường. H ở phía trước giật đèn pin chị K rơi xuống đường, rồi giữ hai tay của chị K thì bị cắn liên tiếp hai phát vào cẳng tay trái, H giật tay trái ra thò ngón tay vào trong váy sờ âm hộ, chị K khép chân đạp về phía trước. Còn Đ ở phía sau, tay trái giữ gùi, tay phải luồn qua ống tay áo sờ ngực. Tay trái chị K cầm được hòn đá to bằng nắm tay đập về phía Đ nhưng không trúng, đập về phía H trúng vùng đầu trên trán bên phải của H. Đ liền giữ tay đang cầm đá, tay trái sờ và đút ngón tay vào trong âm hộ chị K, chị K khép chân lại giằng co làm Đ không giữ được rồi đập đá về phía Đ khiến Đ phải lùi về sau khoảng 01 mét. Đ bực tức tụt quần xuống đến đầu gối bước vào gần chị K để giao cấu. Chị K dùng đá đập liên tục về phía Đ khiến Đ không thể đến gần, lúc này con chị K thức dậy và khóc. Thấy chị K chống cự quyết liệt và con của chị K khóc, Đ sợ bị phát hiện nói với H “chạy đi” và cầm lấy đèn pin của H chạy về xóm Nà Làng được khoảng 200 mét gặp một xe máy đi ngược chiều, Đ xuống bờ đường trốn rồi đi về nhà.

Còn H một mình giữ nên không giữ được, khi chị K vùng đứng dậy H kéo chị K vào bãi đá hộc bên cạnh đường, ngồi lên một hòn đá cao khoảng 0,5 mét. H đứng phía trước nói nhiều lần “tắt đèn đi, vứt đá đi, cho anh đi” (ý nói cho giao cấu), chị K nói “không được”. H tiếp tục sờ ngực, sờ âm hộ, định cởi quần ra giao cấu với chị K thì có ánh đèn xe máy từ hướng xóm N đến, H sợ bị phát hiện nên bỏ chị K ra và chạy về xóm Nà Làng. Chạy được khoảng 100m gặp một xe máy đi ngược chiều, H lấy tay che mặt lại. Sau đó H vào nhà anh Sầm Văn L ở xóm N ngủ nhờ đến sáng mới về nhà.

Lời khai nhận của Hoàng Văn Đ và Cam Văn H phù hợp với lời khai của bị hại Hầu Thị K, những người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi của Hoàng Văn Đ, Cam Văn H đã bị CQĐT lập hồ sơ đề nghị truy tố. Tại bản Cáo trạng số 23/KSĐT ngày 25 tháng 11 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lâm truy tố các bị cáo Hoàng Văn Đ, Cam văn H về tội “Hiếp dâm” theo điểm c khoản 2 Điều 111 của Bộ luật Hình sự 1999.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Cao Bằng giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị:

- Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Hoàng Văn Đ, Cam Văn H phạm tội "Hiếp dâm".

- Về hình phạt:

+ Đối với bị cáo Hoàng Văn Đ: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 111, Điều 20, Điều 33, điểm p khoản 1 Điều 46 và Điều 53 của Bộ luật Hình sự 1999. Xử phạt bị cáo Đ từ 07 đến 08 năm tù. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 52 của Bộ luật Hình sự quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt không quá 3/4 mức phạt tù điều luật quy định.

+ Đối với bị cáo Cam Văn H: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 111, Điều 20, Điều 33, điểm p khoản 1 Điều 46 và Điều 53 của Bộ luật Hình sự 1999. Xử phạt bị cáo Đ1 từ 07 đến 08 năm tù giam. Xét vai trò của bị cáo H là người khởi xướng, tích cực và mức độ thực hiện ý định phạm tội đến cùng nên quyết định hình phạt cao hơn bị cáo Đ. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 52 quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt không quá 3/4 mức phạt tù điều luật quy định.

- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng các điều 584, 585, 586, 587 và 592 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Chấp nhận sự thỏa thuận giữa 02 (Hai) bị cáo và người bị hại, các bị cáo phải có nghĩa vụ liên đới bồi thường cho bị hại số tiền 15.000.000, đồng.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự 1999, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Tịch thu tiêu hủy toàn bộ vật chứng trong vụ án do không còn giá trị sử dụng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Tại phiên tòa, các bị cáo Hoàng Văn Đ và Cam Văn H đã thừa nhận bản Cáo trạng phản ánh đúng hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và lời khai của những người làm chứng cùng các chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án; do đó, có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 03 giờ, ngày 14/9/2017 tại đoạn đường liên xã thuộc xóm L1, xã A1, huyện B1, tỉnh Cao Bằng, các bị cáo Hoàng Văn Đ và Cam Văn H cùng cố ý trực tiếp thực hiện hành vi dùng vũ lực nhằm giao cấu trái ý muốn với chị Hầu Thị K. Mặc dù các bị cáo chưa thực hiện được hành vi giao cấu, lý do chị K kháng cự quyết liệt, con chị K khóc và có xe máy đến nhưng hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến khách thể là nhân phẩm, danh dự của người phụ nữ được pháp luật hình sự bảo vệ. Hành vi “Nhiều người hiếp một người” của các bị cáo đã cấu thành tội “Hiếp dâm” quy định tại Điều 111 của Bộ luật Hình sự. Bản Cáo trạng truy tố các bị cáo về tội “Hiếp dâm” theo điểm c khoản 2 Điều 111 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người đúng tội đúng quy định pháp luật.

[1]. Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội do các bị cáo Hoàng Văn Đ, Cam Văn H thực hiện có tính chất rất nghiêm trọng, gây hoang mang bức xúc trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương, cần được xử lý nghiêm minh theo quy định pháp luật.

Về vai trò của các bị cáo: Đây là trường hợp đồng phạm giản đơn do các bị cáo Hoàng Văn Đ, Cam Văn H cùng cố ý thực hiện một tội phạm. Các bị cáo đều giữ vai trò là người thực hành, trực tiếp thực hiện hành vi dùng vũ lực nhằm giao cấu trái ý muốn với người bị hại; tuy nhiên, bị cáo H là người chủ động đưa ra ý kiến và cố tìnhthực hiện hành vi phạm tội nhiều hơn, do đó phải xử lý nghiêm khắc hơn bị cáo Đ.

[2]. Về nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Bị cáo Cam Văn H không có tiền án tiền sự; không có tình tiết tăng nặng và được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự 1999.

- Bị cáo Hoàng Văn Đ không có tiền án tiền sự; không có tình tiết tăng nặng và được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự 1999.

Hội đồng xét xử tiến hành đánh giá toàn diện, đầy đủ về những vấn đề có lợi cho người phạm tội, theo quy định của Bộ luật hình sự để xem xét áp dụng riêng đối với hành vi phạm tội của từng bị cáo; xét thấy, tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy cần cách ly các bị cáo Hoàng Văn Đ và Cam Văn H ra khỏi xã hội một thời gian nhất định; tuy nhiên, cần áp dụng đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, không quá 3/4 (Ba phần tư) mức phạt tù của điều luật quy định mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và có tác dụng giáo dục người phạm tội thành công dân có ích cho xã hội.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa người bị hại Hầu Thị K yêu cầu các bị cáo Đ1 và H bồi thường 01 (Một) khoản tiền về sức khỏe thân thể của người bị hại tổn thương và một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần mà người bị hại phải gánh chịu tổng cộng là 15.000.000, đồng (Mười năm triệu đồng). Tại phiên tòa các bị cáo Hoàng Văn Đ, Cam Văn H thỏa thuận nhất trí với yêu cầu của người bị hại.

Hội đồng xét xử xét thấy sự tự nguyện thỏa thuận của những người tham gia tố tụng tại phiên tòa, giữa các bị cáo và người bị hại là hoàn toàn tự nguyện, như vậy xem xét công nhận đối với sự thỏa thuận trên là có căn cứ pháp luật; tuy nhiên, tại phiên tòa người bị hại chị K vẫn chưa nhận được khoản tiền trên; do vậy, các bị cáo phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với người bị hại, mỗi bị cáo phải chịu 1/2 của số tiền 15.000.000, đồng (Mười năm triệu đồng) cụ thể: 15.000.000, đồng : 02 người = 7.500.000, đồng.

Mỗi bị cáo phải chịu khoản đền bù cho người bị hại Hầu Thị K số tiền 7.500.000, đồng (Bảy triệu năm trăm nghìn đồng) đồng thời mỗi bị cáo phải chịu số tiền án phí dân sự có gía ngạch của số tiền chưa thi hành 7.500.000, đồng x 5% = 375.000, đồng (Ba trăm bảy mươi năm nghìn đồng) để sung quỹ Nhà nước.

[4]. Về hướng xử lý vật chứng: Đối với 01(Một) áo phông cộc tay màu vàng cam, không có cổ, trước ngực trái có chữ HelloKitty, khu vực sát nách trái của áo đường chỉ bị đứt rời dài 14,6cm, vùng cổ áo có vết rách, áo đã qua sử dụng; 01 (Một) áo sơ mi kẻ cảo dài tay, màu xanh trắng, phía bên trong cổ áo có chữ COMICBOOK, áo đã qua sử dụng; 01 (Một) áo phông màu trắng, cổ tròn, phía trước ngực có chữ Lũng Cú, Đồng Văn, Hà Giang, áo có nhiều vết bẩn, áo đã qua sử dụng; 01 hòn đá có chiều dài nhất là 11,6cm, chu vi 16,2cm; 01 (Một) sợi dây chun (dây thun) màu trắng (đã bị bẩn chuyển màu), có một đoạn dây cao su màu đen buộc hai đầu sợi dây màu trắng lại với nhau; 01(Một) đèn pin có dán mác A4-30W AKASHA, loại đèn đeo đầu nhưng không có dây đeo, viền đèn có màu vàng, đèn đã qua sử dụng. Đây là công cụ và các tài sản mà các bị cáo dùng vào việc thực hiện hành vi phạm tội, xác định không còn giá trị sử dụng, tại phiên tòa các bị cáo cũng không yêu cầu lấy lại, do đó cần tịch thu tiêu hủy là có căn cứ.

Về án phí: Các bị cáo Hoàng Văn Đ và Cam Văn H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 và theo quy định tại khoản 2 Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Hoàng Văn Đ và Cam Văn H phạm tội “Hiếp dâm”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 111; Điều 18; Điều 20; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 52 và Điều 53 của Bộ luật hình sự 1999.

- Xử phạt bị cáo Hoàng Văn Đ 05 (Năm) 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 14/9/2017.

- Xử phạt bị cáo Cam văn H 05 (Năm) 09 (Chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 14/9/2017.

3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng các Điều 584, 585, 586, 587 và 592 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Buộc các bị cáo Đ, H có trách nhiệm bồi thường cho người bị hại (Hầu Thị K) tổng số tiền 15.000.000, đồng; trong đó, mỗi bị cáo phải chịu 1/2 của tổng số tiền trên là 7.500.000, đồng (Bảy triệu năm trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 của Bộ luật hình sự 1999; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01(Một) áo phông cộc tay màu vàng cam không có cổ, trước ngực trái có chữ HelloKitty áo đã qua sử dụng; 01(Một) áo sơ mi kẻ ca rô dài tay, màu xanh trắng, phía bên trong cổ áo có chữ COMICBOOK áo đã qua sử dụng; 01(Một) áo phông màu trắng cổ tròn, phía trước ngực có chữ Lũng Cú, Đồng Văn, Hà Giang áo có nhiều vết bẩn, áo đã qua sử dụng của bị cáo Đ; 01(Một) hòn đá có chiều dài nhất là 11,6cm, chu vi 16,2cm; 01 sợi dây chun (dây thun) màu trắng (đã bị bẩn chuyển màu) có một đoạn dây cao su màu đen buộc hai đầu sợi dây màu trắng lại với nhau; 01 (Một) đèn pin có dán mác A4-30W AKASHA, loại đèn đeo đầu nhưng không có dây đeo, viền đèn có màu vàng, đèn đã qua sử dụng; 01(Một) đoạn dây cao su màu đen buộc hai đầu sợi dây màu trắng lại với nhau của bị cáo Cam Văn H. Tất cả vật chứng trên đều đã quan sử dụng; xác định không có giá trị sử dụng.

(Toàn bộ vật chứng trong vụ án đang được quản lý tại Kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự huyện Bảo Lâm theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 04 ngày 23/11/2017).

5. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 và khoản 2 Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Bị cáo Hoàng Văn Đ phải chịu 200.000, đồng Án phí hình sự sơ thẩm và 375.000, đồng Án phí dân sự sơ thẩm để sung vào công quỹ Nhà nước. Tổng hai khoản án phí bị cáo phải chịu là 575.000, đồng (Năm trăm bảy mươi năm nghìn đồng).

- Bị cáo Cam Văn H phải chịu 200.000, đồng Án phí hình sự sơ thẩm và 375.000, đồng Án phí dân sự sơ thẩm để sung vào công quỹ Nhà nước. Tổng hai khoản án phí bị cáo phải chịu là 575.000, đồng (Năm trăm bảy mươi năm nghìn đồng).

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Các bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1911
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 02/2018/HS-ST ngày 04/01/2018 về tội hiếp dâm

Số hiệu:02/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Lâm - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;