TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH - TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 02/2018/DSST NGÀY 25/01/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
Ngày 25 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 326/2017/TLST-HNGĐ, ngày 22 tháng 11 năm 2017 về tranh chấp Hôn nhân và Gia đình, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03 /2018/QĐXXST-HNGĐ, ngày 12 tháng 01 năm 2018 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Hà Thị T - sinh năm 1992
Trú tại: xóm T - xã P - huyện Y - tỉnh Nghệ An
Nghề nghiệp: làm ruộng (có mặt)
- Bị đơn: Anh Phạm Quang T - sinh năm 1990
Trú tại: xóm T - xã P - huyện Y - tỉnh Nghệ An.
Nghề nghiệp: Làm ruộng (vắng mặt lần thứ hai)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn ly hôn đề ngày 20/11/2017, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án chị Hà Thị T trình bày: chị và anh Phạm Quang T kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có tìm hiểu, tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán và đăng ký kết hôn vào 06/12/2013, tại Ủy ban nhân dân xã P - huyện Y. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp, anh T không lo làm ăn không quan tâm đến vợ con. Dẫn đến tình cảm vợ chồng rạn nứt, mâu thuẫn ngày càng căng thẳng. Mặc dù gia đình hai bên đã khuyên nhủ hòa giải nhưng không đem lại kết quả gì. Chị và anh T cắt đứt mọi quan hệ tình cảm và sống ly thân từ năm 2016 cho đến nay. Chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn nữa, mục đích hôn nhân không đạt được, chị yêu cầu tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Phạm Quang T.
- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Phạm Quang P - sinh ngày 08/7/2014 và Phạm Quang Đ - sinh ngày 30/6/2016. Nay ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi cả hai con chung. Vì từ khi vợ chồng sống ly thân con chung ở với chị, mọi việc của con chung từ sinh hoạt, đến học tập chị một mình tự lo toan, anh T thường xuyên đi làm ăn xa không có thời gian và điều kiện để chăm sóc gần gũi con hằng ngày như chị. Tại phiên tòa chị T cho biết hiện nay ngoài công việc chính làm nông nghiệp chị còn làm thêm nghề phụ buôn bán kinh hàng tạp hóa thu nhập trung bình 3.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng/tháng, hơn nữa từ khi ly thân con chung ở với chị, bên cạnh mẹ con chị còn có ông bà, anh chị em ruột ở gần luôn hỗ trợ cho chị và các con cả vật chất lẫn tinh thần, từ những lý do đó chị đề nghị Tòa xem xét nguyện vọng của chị.
- Về tài sản: Chị Hà Thị T không yêu cầu tòa án giải quyết.
Về phía bị đơn anh Phạm Quang T quá trình giải quyết, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh T vẫn không có mặt. Tòa án đã trực tiếp tống đạt giấy triệu tập và các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh T theo đúng quy định của pháp luật nhưng anh T vẫn không có mặt, vì vậy Tòa án không tiến hành phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải và cũng không lấy lời khai của anh T được.Tuy nhiên qua tài liệu do nguyên đơn cung cấp và qua biên bản xác minh tại xóm, xã thì tình trạng hôn nhân, con chung chưa thành niên giữa chị Hà Thị T và anh Phạm Quang T đúng như chị T trình bày.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa. Sau khi nghe ý kiến trình bày của chị Hà Thị T tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
1. Về tố tụng:
Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
Trong quá trình giải quyết vụ án, toà án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho chị T và anh T, yêu cầu anh, chị có mặt tại Toà án để giải quyết vụ án nhưng anh T không có mặt. Vì vậy Toà án đã lập biên bản theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, làm cơ sở giải quyết vụ án.
Ngày 28 tháng 12 năm 2017, Tòa án Quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập đến phiên toà và đã tống đạt hợp lệ cho các đương sự. Tại phiên toà lần thứ nhất ngày 09/01/2018 chị T có mặt, anh T vắng mặt không có lý do, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà. Để tiếp tục giải quyết vụ án, Toà án tiếp tục tống đạt các văn bản tố tụng phiên toà lần thứ hai cho các bên đương sự tuy nhiên tại phiên toà hôm nay anh T tiếp tục vắng mặt không có lý do. Như vậy, anh T đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, căn cứ vào khoản 2 điều 227của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt đối với bị đơn.
2. Về nội dung:
- Quan hệ hôn nhân: Xét hôn nhân giữa chị T, anh T là hôn nhân hợp pháp, tuân thủ theo quy định của pháp luật. Song qua xem xét thực tế thì thấy rằng cuộc sống chung của vợ chồng những năm gần đây không được hạnh phúc, mâu thuẫn liên tục xảy ra và đã thực sự căng thẳng, trầm trọng, hai bên đã sống ly thân, không còn quan tâm, trách nhiệm gì với nhau nữa. Trên cở sở đó xác định tình cảm vợ chồng không còn gắn kết với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được, việc chị T yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh T là có căn cứ, cần chấp nhận.
- Quan hệ con chung: Quá trình giải quyết vụ án chị T có nguyện vọng yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng. Việc nuôi con vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của các bên vì vậy nguyện vọng của chị T là nguyện vọng chính đáng cần xem xét.
Xét hoàn cảnh hiện tại của anh T hiện nay thường xuyên đi làm ăn xa, không có thời gian về chăm con, từ khi sống ly thân con chung chủ yếu do một mình chị T chăm sóc, nuôi dưỡng. Hơn nữa hiện nay cháu 02 con chung của vợ chồng đang ở cùng chị T ổn định; tại phiên tòa chị trình bày ngoài việc làm nông nghiệp chị có làm thêm nghề phụ thu nhập trung bình từ 3.000.000 - 4.000.000 đồng/tháng đủ trang trải cuộc sống cho ba mẹ con, hơn nữa từ khi ly thân con chung ở với chị tình cảm gắn bó, bên cạnh chị còn có bố mẹ, người thân hỗ trợ cho ba mẹ con cả vật chất lẫn tinh thần vì vậy cần tiếp tục giao cho chị T nuôi dưỡng cháu P và cháu Đ cho đến khi trưởng thành là phù hợp với tình hình thực tế cũng như quy định của pháp luật.
- Quan hệ tài sản: Chị T không yêu cầu tòa án giải quyết nên miễn xét.
*Về án phí: Chị Hà Thị T phải nộp án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Tại phiên Tòa đại diện viện kiểm sát có ý kiến và thống nhất: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, HĐXX và Thư ký cụ thể như sau: Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện các quy định tại điều 203 BLTTDS năm 2015. Tòa án đã thụ lý đúng thẩm quyền và xác định đúng quan hệ tranh chấp. Việc chấp hành theo pháp luật tố tụng dân sự của thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đúng pháp luật tố tụng dân sự. Đối với nguyên đơn, bị đơn tuy không tiến hành phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải được nhưng quá trình chuẩn bị xét xử Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng và Quyết định xét xử cho các đương sự, thực hiện việc xác minh về tình trạng hôn nhân, con chung chưa thành niên đúng quy định tại khoản 3 điều 208 BLTTDS Tại phiên Tòa Thẩm phán, HĐXX và Thư ký thực hiện đúng trình tự thủ tục tố tụng giải quyết vụ án.
Với các tài liệu do đương sự cung cấp và thẩm phán thu thập có tại hồ sơ vụ án đủ cơ sở giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 điều 28; khoản 2 điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; điều 51, 56, 81.82.83 của Luật Hôn Nhân và Gia đình;
- Về hôn nhân: Xử cho chị Hà Thị T được ly hôn anh Phạm Quang T.
-Về con chung: Giao 02 con chung là cháu Phạm Quang P - sinh ngày 08/7/2014 và Phạm Quang Đ - sinh ngày 30/6/2016 cho chị Hà Thị T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi trưởng thành.Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con cho anh Phạm Quang T.
Anh T không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.
- Án phí: Căn cứ vào khoản 4, điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; điều 27 Nghị quyết 326 /2016/UBTVQH, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí tòa án.
Buộc chị Hà Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, án phí của chị T được tính trừ vào tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Yên Thành (Biên lai thu tiền số: 0006684, ngày 22 tháng 11 năm 2017), chị T đã nộp đủ án phí.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt chị Hà Thị T, vắng mặt anh Phạm Quang T.
Tuyên bố để các bên đương sự biết, nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ.
Bản án 02/2018/DSST ngày 25/01/2018 về tranh chấp hôn nhân gia đình
Số hiệu: | 02/2018/DSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 25/01/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về