TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TR À VINH
BẢN ÁN 01/2021/KDTM-PT NGÀY 21/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN, HỢP ĐỒNG BẢO LÃNH
Ngày 21 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 01/2020/TLPT-KDTM ngày 15 tháng 10 năm 2020 về việc "Tranh chấp hợp đồng mua bán, hợp đồng bảo lãnh".
Do bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2020/KDTM-ST ngày 29 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Trà Vinh bị kháng cáo, kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 08/2021/QĐ-PT ngày 14 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Doanh nghiệp tư nhân sản xuất – thương mại Nguyễn T (gọi tắt là doanh nghiệp Nguyễn T).
Địa chỉ: Đường N, khóm X, phường Y, thành phố T, tỉnh Trà Vinh.
Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp Nguyễn T: Ông Nguyễn Văn T – Chủ doanh nghiệp (vắng mặt) Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn T: Ông Trương Hoàng S, 1985; trú tại ấp T, xã H, huyện C, tỉnh Trà Vinh (Văn bản ủy quyền ngày 14/10/2020) (có mặt).
- Bị đơn:
1. Công ty Trách nhiệm hữu hạn thiết kế xây dựng và dịch vụ Sơn H (gọi tắt là Công ty Sơn H).
Địa chỉ: Số O, phường P, quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật của Công ty Sơn H: Ông Hà Văn M – chức vụ: Giám đốc công ty (vắng mặt).
2. Công ty Cổ phần dịch vụ thương mại xây dựng Tân Nam V (gọi tắt là Công ty Tân Nam V) Địa chỉ: Số R, đường số G, phường D, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật của Công ty Tân Nam V: Ông Võ Hoàng P – Tổng giám đốc công ty (vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của ông Võ Hoàng P: Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1972; trú tại số Y, Phường E, Quận T, thành phố Hồ Chí Minh (Văn bản ủy quyền ngày 11/8/2020) (có mặt).
- Người kháng cáo: Công ty Cổ phần dịch vụ thương mại xây dựng Tân Nam V.
- Viện kiểm sát kháng nghị: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Trà Vinh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 16 tháng 8 năm 2018 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án người đại diện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn T trình bày:
Công ty Tân Nam V là nhà thầu chính ký hợp đồng với chủ đầu tư là V Trà Vinh để xây dựng Trung tâm thương mại Vincom Trà Vinh. Do có quen biết với ông Võ Hoàng P và bà Nguyễn Thị Quỳnh A là Giám đốc Công ty Tân Nam V, ông P và bà A giới thiệu, bảo lãnh về tài chính cho Công ty Sơn H nên doanh nghiệp Nguyễn T đồng ý bán bê tông và vật liệu xây dựng cho Công ty Sơn H theo hợp đồng kinh tế số 01/06/NT ngày 08/6/2016 và hợp đồng cung cấp bê tông trộn sẵn số 28/2016/HĐMB/NT ngày 14/6/2016. Đối với hợp đồng số 01/06/NT ngày 08/6/2016 doanh nghiệp Nguyễn T đã cung cấp vật liệu xây dựng cho Công ty Sơn H như tole, thép, đá,… qua nhiều lần giao nhận hàng hóa, thanh toán tiền hàng được 26.000.000 đồng. Ngày 30/8/2016 đối chiếu công nợ Công ty Sơn H xác nhận còn nợ doanh nghiệp Nguyễn T số tiền 561.056.000 đồng. Từ khi công trình hoàn thành đưa vào sử dụng nhưng phía Công ty Sơn H vẫn chưa thanh toán. Doanh nghiệp Nguyễn T yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty Sơn H phải trả số tiền 561.056.000 đồng.
Đối với hợp đồng số 28/2016/HĐMB/NT ngày 14/6/2016 sau khi ký hợp đồng doanh nghiệp Nguyễn T có cung cấp bê tông trộn sẵn cho Công ty Sơn H, tính đến ngày 12/8/2016, doanh nghiệp Nguyễn T đã cung cấp bê tông khối lượng đạt đến giá trị 2.027.296.000 đồng nhưng Công ty Sơn H không thanh toán tiền hàng, đến ngày 15/8/2016 Công ty Tân Nam V có chuyển khoảng cho doanh nghiệp Nguyễn T số tiền 500.000.000 đồng và ngày 17/8/2016 Công ty Tân Nam V có văn bản bảo lãnh công nợ theo hợp đồng 28/2016/HĐMB/NT ngày 14/6/2016. Qua đối chiếu công nợ ngày 17/8/2016, Công ty Sơn H còn nợ doanh nghiệp Nguyễn T số tiền 1.876.662.000 đồng do được bảo lãnh nên doanh nghiệp Nguyễn T tiếp tục cung cấp bê tông cho phía Công ty Sơn H vì vậy mà công nợ tiếp tục tăng. Tại biên bản đối chiếu công nợ ngày 10/10/2016 do ông Hà Văn M xác nhận Công ty Sơn H còn thiếu doanh nghiệp Nguyễn T số tiền là 1.958.602.000 đồng. Nhiều lần doanh nghiệp Nguyễn T yêu cầu trả số nợ trên nhưng phía Công ty Tân Nam V và Công ty Sơn H không trả.
Nay, doanh nghiệp Nguyễn T yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty Sơn H và Công ty Tân Nam V phải cùng có trách nhiệm thanh toán số tiền còn lại theo hợp đồng số 28/2016/HĐMB/NT ngày 14/6/2016 là 1.958.602.000 đồng cho doanh nghiệp Nguyễn T đồng thời yêu cầu tình lãi suất theo quy định của pháp luật.
Bị đơn Công ty TNHH thiết kế, xây dựng và dịch vụ Sơn H do người đại diện theo pháp luật ông Hà Văn M trình bày: Công ty Sơn H có ký kết hợp đồng với doanh nghiệp Nguyễn T theo hợp đồng kinh tế số 01/06/2016/NT ngày 08/6/2016 và hợp đồng cung cấp bê tông trộn sẵn số 28/2016/HĐMB/NT ngày 14/6/2016, sau khi ký hợp đồng phía doanh nghiệp Nguyễn T đã triển khai thực hiện hợp đồng trên.
Đối với hợp đồng số 01/06/NT ngày 08/6/2016, doanh nghiệp Nguyễn T đã cung cấp vật liệu xây dựng theo đúng như hợp đồng, đến ngày 30/8/2016 đối chiếu công nợ xác định Công ty Sơn H còn nợ doanh nghiệp Nguyễn T số tiền 561.056.000 đồng. Đối với hợp đồng cung cấp bê tông trộn sẵn số 28/2016/HĐMB/TN ngày 14/6/2016 sau khi ký hợp đồng, doanh nghiệp Nguyễn T đã thực hiện đúng như những thỏa thuận trong hợp đồng nhưng trong quá trình thực hiện Công ty Sơn H gặp khó khăn về tài chính nên Công ty Tân Nam V có đứng ra bảo lãnh về tài chính cho Công ty Sơn H, phía Công ty Tân Nam V có chuyển trả cho doanh nghiệp Nguyễn T 1.000.000.000 đồng số tiền còn lại đối chiếu công nợ ngày 10/10/2016 Công ty Sơn H còn nợ doanh nghiệp Nguyễn T số tiền là 1.958.602.000 đồng.
Nay, Công ty Sơn H đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của doanh nghiệp Nguyễn T. Tuy nhiên, yêu cầu xem xét không tính lãi suất phát sinh do chậm thanh toán tiền hàng theo hai hợp đồng trên.
Bị đơn Công ty Cổ phần dịch vụ thương mai xây dựng Tân Nam V do người đại diện theo pháp luật là ông Nguyễn Văn Đ trình bày: Ngày 30/5/2016 Công ty Tân Nam V có ký hợp đồng thi công xây dựng với Công ty TNHH quản lý xây dựng Vincom 1 hợp đồng kinh tế số 3005/2016/HDXD/XDVC1-TNV về việc thi công phần xây dựng, hoàn thiện xây, trát, ốp lát – hạng mục Shophouse – Vin com Trà Vinh với tổng giá trị tính trọn gói là 17.669.002.263 đồng.
Để thực hiện công trình nói trên, ngày 06/6/2016 Công ty Tân Nam V ký hợp đồng với nhà thầu phụ là Công ty Sơn H theo hợp đồng 3005/2016/HDXD/XDVC1- TNV để giao lại các hạng mục nói trên cho Công ty Sơn H thực hiện thi công với giá trị 15.122.142.858 đồng.
Để thực hiện hợp đồng do nhu cầu về vật tư để thi công công trình, phía Công ty Sơn H có ký hợp đồng mua bán hàng hóa với doanh nghiệp Nguyễn T. Để đảm bảo cho việc thanh toán đúng hạn Công ty Tân Nam V có văn bản bảo lãnh công nợ với Doanh nghiệp Nguyễn T, phát hành biên bản đối chiếu công nợ ngày 06/8/2016 với tổng giá trị thanh toán là 2.027.296.000 đồng để thực hiện việc bảo lãnh trên ngày 15/8/2016 và ngày 07/9/2016 Công ty Tân Nam V đã chuyển khoảng cho doanh nghiệp Nguyễn T số tiền 1.000.000.000 đồng.
Từ tháng 11 đến tháng 12/2016, chủ đầu tư là Công ty Vincom 1 đã tự ý chuyển khoản toàn bộ giá trị tiến độ thi công công trình vào tài khoản của Công ty Sơn Hải mà không chuyền tiền cho Công ty Tân Nam V. Công ty Tân Nam V đã nhiều lần khiếu nại thì vào ngày 19/01/2017 giữa Công ty Tân Nam V và Công ty Vincom 1 đã lập văn bản thỏa thuận về việc chuyển quyền và nghĩa vụ số 01/2017/TBBB, các bên thống nhất giao toàn bộ hạng mục công trình còn lại cho Công ty Sơn H thi công và chịu trách nhiệm trước các chủ đầu tư và các nhà cung cấp vật tư cho công trình. Cùng ngày phía Công ty Sơn H và Công ty Tân Nam V có ký thỏa thuận về việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ số 01/2017/BBTT-TNV theo đó, Công ty Sơn H sẽ thanh toán các khoản nợ cho nhà thầu phụ và các nhà cung cấp vật tư trong đó có doanh nghiệp Nguyễn T.
Ngày 07/12/2016, Công ty Tân Nam V đã có văn bản thông báo cho phía Doanh nghiệp Nguyễn T biết sự việc và đề nghị sẽ không bảo lãnh thanh toán thay cho Công ty Sơn H. Phía Doanh nghiệp Nguyễn T không phản hồi mà tiếp tục mua bán hàng hóa với Công ty Sơn H.
Nay, Công ty Tân Nam V không đồng ý liên đới với Công ty Sơn H thanh toán cho doanh nghiệp Nguyễn T theo đơn khởi kiện.
Tại bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2020/KDTM-ST ngày 29 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Trà Vinh đã quyết định:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 30, khoản 1 Điều 35; điểm g Điều 40; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 116, Điếu 117, Điều 119, Điều 335, Điều 336, Điều 339, Điều 342, Điều 357, Điều 688 Bộ luật Dân sự 2015 Căn cứ Điều 50, Điều 306, Điều 319 Luật thương mại.
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Buộc Công ty TNHH thiết kế xây dựng và dịch vụ Sơn H cùng Công ty Cổ phần dịch vụ thương mại xây dựng Tân Nam V trả cho ông Nguyễn Văn T- chủ Doanh nghiệp tư nhân sản xuất thương mại Nguyễn T 3.156.387.500 đồng theo hợp đồng cung cấp bê tông trộn sẵn số: 28/2016/HĐMB/NT ngày 14/6/2016.
Trong đó nợ gốc là: 1.958.602.000 đồng Lãi: 1.197.776.500 đồng Buộc Công ty TNHH thiết kế xây dựng và dịch vụ Sơn H trả cho ông Nguyễn Văn T – chủ Doanh nghiệp tư nhân sản xuất thương mại Nguyễn T 919.428.500 đồng theo hợp đồng kinh tế số 01/06/2016/NT ngày 08 tháng 6 năm 2016.
Trong đó: Nợ gốc là 561.0560.000 đồng Lãi: 358.372.500 đồng Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 11/8/2020 Công ty Cổ phần dịch vụ thương mại xây dựng Tân Nam V có đơn kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ thẩm về việc buộc Công ty Cổ phần dịch vụ, thương mại, xây dựng Tân Nam Vcùng với Công ty Sơn H chịu trách nhiệm thanh toán số tiền còn nợ theo hợp đồng số 28/2016/HĐMB/NT ngày 14/6/2016 với số tiền 1.958.602.000 đồng và lãi chậm thanh toán 1.197.776.550 đồng.
Ngày 27 tháng 8 năm 2020, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Trà Vinh có Quyết định kháng nghị số 13/QĐKNPT-VKS-DS yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy một phần bản án sơ thẩm đối với việc thực hiện nghĩa vụ của các bên trong hộ đồng số 28/2016/HĐMB/NT ngày 14/6/2016 do Tòa án cấp sơ thẩm thu thập chứng cứ chưa đầy đủ và bản án tuyên vượt quá phạm vi bảo lãnh gây ảnh hưởng đến quyền và lợi hợp pháp của Công ty Tân Nam V.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện cho nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, người đại diện cho bị đơn là Công ty Tân Nam V vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Trà Vinh vẫn giữ nguyên quyết định kháng nghị.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Trà Vinh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến như sau: Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các đương sự và những người tham gia tố tụng khác đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Xét kháng cáo của bị đơn là Công ty Tân Nam V và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Trà Vinh còn trong hạn luật định, cần được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
Đối với phần nợ quá hạn: Căn cứ vào hợp đồng bảo lãnh ngày 17/8/2016 giữa Công ty Tân Nam V với doanh nghiệp Nguyễn T thì đối với khoản nợ mà Công ty Tân Nam V phải cùng chịu trách nhiệm với Công ty Sơn H trả cho doanh nghiệp Nguyễn T là số tiền 1.376.662.000 đồng, tính lãi kể từ ngày nghiệm thu bàn giao đưa vào sử dụng công trình Vincom Trà Vinh. Tòa án cấp sơ thẩm không thu thập biên bản nghiệm thu bàn giao đưa vào sử dụng công trình Vincom Trà Vinh để làm căn cứ tính lãi suất cho khoản nợ quá hạn 1.376.662.000 đồng mà Công ty Sơn H còn nợ doanh nghiệp Nguyễn T mà cộng chung hai khoản nợ tuyên buộc Công ty Tân Nam V cùng chịu trách nhiệm liên đới trả cho doanh nghiệp Nguyễn T là chưa thu thập chứng cứ đầy đủ, tuyên án không đúng theo phạm vi hợp đồng bảo lãnh.
Đối với khoản nợ phát sinh: Ngày 10/10/2016 doanh nghiệp Nguyễn T và Công ty Sơn H đối chiếu công nợ xác định nợ phát sinh sau ngày 17/8/2016 mà Công ty Sơn H thiếu doanh nghiệp Nguyễn T bằng 581.940.000 đồng. Đối với phần nợ phát sinh này, theo hợp đồng bảo lãnh thì nếu Công ty Sơn H không thanh toán đầy đủ và đúng hạn thì Công ty Tân Nam V sẽ thanh toán cho doanh nghiệp Nguyễn T tiền hàng và tiền lãi trả chậm và lãi phát sinh theo Điều 3 của Hợp đồng số 28/2016/HĐMB/NT ngày 14/6/2016. Căn cứ vào cam kết bảo lãnh nêu trên thì Công ty Tân Nam V phải cùng chịu trách nhiệm với Công ty Sơn H thanh toán cho Doanh nghiệp Nguyễn T số tiền nợ phát sinh 581.940.000 đồng và tiền lãi trả chậm và lãi phát sinh từ ngày kết sổ cuối cùng (10/10/2016) là đúng. Việc Tòa án cấp sơ thẩm tuyên buộc phía công ty Tân Nam V cùng chịu trách nhiệm với Công ty Sơn H trả nợ cho doanh nghiệp Nguyễn T là có cơ sở.
Từ những cơ sở trên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn, chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Trà Vinh, căn cứ vào khoản 3 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử hủy một phần bản án số 01/2020/KDTM-ST ngày 29/7/2020 của Tòa án nhân dân thành phố T.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, quy định của pháp luật, ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị đơn, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về sự vắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của Công ty Sơn H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vắng mặt không có lý do và không có văn bản ủy quyền. Theo quy định tại khoản 1 Điều 294 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định "Người kháng cáo, đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải được triệu tập tham gia phiên tòa". Trong vụ án, Công ty Sơn H không có đơn kháng cáo, việc xem xét kháng nghị và kháng cáo của Công ty Tân Nam V không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty Sơn H nên Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy không cần thiết phải có mặt đại diện Công ty Sơn H tại phiên tòa phúc thẩm nên tiến hành xét xử vắng mặt Công ty Sơn H.
[2] Về thời hạn kháng cáo, kháng nghị: Xét đơn kháng cáo của Công ty Cổ phần dịch vụ thương mại xây dựng Tân Nam V và quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Trà Vinh còn trong hạn luật định được Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[3] Về nội dung kháng nghị: Ngày 14/6/2016, Công ty Sơn H ký với doanh nghiệp Nguyễn T hợp đồng cung cấp bê tông trộn sẵn số 28/2016/HĐMB/NT theo nội dung hợp đồng thì doanh nghiệp Nguyễn T có trách nhiệm cung cấp bê tông tươi cho Công ty Sơn H và phía Công ty Sơn H có nghĩa vụ thanh toán giá trị cho doanh nghiệp Nguyễn T theo thỏa thuận. Ngày 17/8/2016, hai bên đối chiếu công nợ xác định Công ty Sơn H còn nợ doanh nghiệp Nguyễn T số tiền 1.876.662.000 đồng. Để đảm bảo cho công trình thi công hoàn thành đúng hạn thì cùng ngày 17/8/2016, Công ty Tân Nam V có văn bản bảo lãnh công nợ cho Công ty Sơn H với nội dung bảo lãnh thể hiện "Đối với phần nợ quán hạn bên bảo lãnh sẽ đứng ra bảo lãnh và chịu trách nhiệm thanh toán toàn bộ phần công nợ hiện tại mà thầu phụ chưa thanh toán cho bên bán. Thời hạn thanh toán là từ ngày ký bảo lãnh cho đến ngày nghiệm thu bàn giao đưa vào sử dụng công trình Vincom Trà Vinh".
[4] Sau khi ký hợp đồng bảo lãnh, ngày 07/9/2016 Công ty Tân Nam V có chuyển vào tài khoản của doanh nghiệp Nguyễn T số tiền 500.000.000 đồng. Như vậy, số nợ theo hợp đồng bảo lãnh của Công ty Tân Nam V còn lại đối với doanh nghiệp Nguyễn T là 1.376.662.000 đồng. Căn cứ vào hợp đồng bảo lãnh thì Công ty Tân Nam V phải chịu trách nhiệm bảo lãnh đối với khoảng nợ trên kể từ khi nghiệm thu bàn giao đưa vào sử dụng công trình Vicom Trà Vinh. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm không thu thập hồ sơ nghiệm thu công trình Vincom Trà Vinh để xác định ngày Công ty Sơn H chậm thực hiện nghĩa vụ mà bản án sơ thẩm đã tuyên buộc Công ty Tân Nam V cùng liên đới chịu trách nhiệm trả cho doanh nghiệp Nguyễn T số tiền lãi suất trên số nợ quá hạn tính từ ngày 10/10/2016 (không phải là ngày nghiệm thu đưa công trình vào sử dụng) là không phù hợp với thỏa thuận trong hợp đồng bảo lãnh giữa các bên.
[5] Đại diện Công ty Tân Nam V cho rằng từ tháng 11 đến tháng 12 năm 2016 phía chủ đầu tư là Công ty TNHH quản lý xây dựng Vincom 1 đã tự ý chuyển khoản toàn bộ giá trị tiến độ công trình vào tài khoản của Công ty Sơn H. Ngày 19/01/2017, các bên gồm Công ty TNHH quản lý xây dựng Vincom 1, Công ty Tân Nam V và Công ty Sơn H đã ký biên bản thỏa thuận số 01/2017/TTBB về việc các bên thống nhất giao toàn bộ hạng mục công trình còn lại cho Công ty Sơn H thi công và tự chịu trách nhiệm trước chủ đầu tư cà các nhà cung cấp vật tư cho công trình. Việc Công ty TNHH quản lý xây dựng Vincom 1 không thực hiện hiện cam kết theo hợp đồng số 3005/2016/HĐXD/XDVC1-TNV ngày 30/5/2016 không chuyển toàn bộ giá trị tiến độ công trình cho Công ty Tân Nam V mà chuyển cho Công ty Sơn H là nguyên nhân dẫn đến Công ty Tân Nam V chấm dứt việc bảo lãnh đối với doanh nghiệp Nguyễn T. Tuy nhiên, khi xem xét nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng số 28/2016/HĐMB/NT ngày 14/6/2016, Tòa án không đưa Công ty TNHH quản lý xây dựng Vincom 1 vào tham gia tố tụng để thu thập chứng cứ, làm rõ lý do của sự việc trên khi giải quyết vụ án là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
[6] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Trà Vinh đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy một phần bản án đối với việc thực hiện nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng số 28/2016/HĐMB/NT ngày 14/6/2016 là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.
[7] Ngoài ra, theo hợp đồng kinh tế số 01/06/2016/NT ngày 08/6/2016 và hợp đồng cung cấp bê tông trộn sẵn số 28/2016/HĐMB/NT ngày 14/6/2016 đều được giao kết giữa Công ty TNHH thiết kế xây dựng và dịch vụ Sơn H với Doanh nghiệp tư nhân sản xuất thương mại Nguyễn T. Như vậy, tư cách khi tham gia ký kết hợp đồng với Công Sơn H là doanh nghiệp Nguyễn T không phải với tư cách cá nhân ông Nguyễn Văn T. Do đó, để xác định người có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc các bên phải thực hiện nghĩa vụ theo thỏa thuận trong hợp đồng và tư cách nguyên đơn khi tham gia tố tụng trong vụ án này phải là Doanh nghiệp tư nhân sản xuất – thương mại Nguyễn T không phải là cá nhân ông Nguyễn Văn T. Việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định ông Nguyễn Văn T là nguyên đơn trong vụ án là sai lầm thiếu sót cần rút kinh nghiệm trong quá trình xét xử.
[8] Đối với yêu cầu kháng cáo của Công ty Tân Nam V, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm về việc buộc Công ty Cổ phần dịch vụ, thương mại, xây dựng Tân Nam V cùng với Công ty Sơn H chịu trách nhiệm thanh toán số tiền còn nợ theo hợp đồng số 28/2016/HĐMB/NT ngày 14/6/2016 với số tiền 1.958.602.000 đồng và lãi chậm thanh toán 1.197.776.550 đồng. Do Hội đồng xét xử xem xét hủy một phần bản án sơ thẩm đối với việc thực hiện nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng số 28/2016/HĐMB/NT ngày 14/6/2016 nên yêu cầu kháng cáo của Công ty Tân Nam V không được Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét chấp nhận mà yêu cầu của Công ty Tân Nam V sẽ được xem xét giải quyết khi Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại vụ án.
[9] Xét ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Công ty Tân Nam V là không phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận.
[10] Từ những nhận định trên xét thấy bản án sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, nội dung mà Tòa án cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Trà Vinh và quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa. Hủy một phần bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2020/KDTM-ST ngày 29 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Trà Vinh giao toàn bộ hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố T xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.
[11] Về án phí: Theo khoản 3 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
khoản 3 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án quy định “Trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm thì đương sự kháng cáo không phải chịu án phí phúc thẩm; nghĩa vụ chịu án phí được xác định lại khi giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm”. Cho nên, Công ty Tân Nam V không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, hoàn trả lại phần tạm ứng án phí phúc thẩm mà đương sự đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Hủy một phần bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2020/KDTM- ST ngày 29 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Trà Vinh về việc tuyên buộc Công ty TNHH thiết kế xây dựng và dịch vụ Sơn H cùng Công ty Cổ phần dịch vụ thương mại xây dựng Tân Nam V trả cho ông Nguyễn Văn T - chủ Doanh nghiệp tư nhân sản xuất thương mại Nguyễn T số tiền 3.156.387.500 đồng theo hợp đồng cung cấp bê tông trộn sẵn số: 28/2016/HĐMB/NT ngày 14/6/2016.
Trong đó nợ gốc là: 1.958.602.000 đồng. Lãi: 1.197.776.500 đồng Giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Trà Vinh xét xử lại đối với Hợp đồng cung cấp bê tông trộn sẵn số 28/2016/HĐMB/NT ngày 14/6/2016.
2. Về án phí: Các đương sự không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm cho Công ty Cổ phần dịch vụ thương mại xây dựng Tân Nam V số tiền là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), theo biên lai số 0000889 ngày 11/8/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T.
3. Đối với số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm, sẽ được xem xét khi vụ án được giải quyết lại.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 01/2021/KDTM-PT ngày 21/01/2021 về tranh chấp hợp đồng mua bán, hợp đồng bảo lãnh
Số hiệu: | 01/2021/KDTM-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Trà Vinh |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 21/01/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về