Bản án 01/2021/HSST ngày 11/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 01/2021/HSST NGÀY 11/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 11 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, mở phiên toà công khai, xét xử sơ thẩm, vụ án hình sự thụ lý số: 126/2020/TLST-HS ngày 26 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 135/2020/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 12 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Văn T - Sinh ngày 22/5/1994, tại huyện B, tỉnh L; Giới tính: Nam.

Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi ở: Tổ 03, phường L, thành phố L, tỉnh L.

Trình độ văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch : Việt Nam .

Con ông: Nguyễn Tiến T - Sinh năm 1960 và bà: Đỗ Thanh M- Sinh năm 1970.

Bị cáo chưa có vợ, con;

Tiền sự: Không;

Tiền án : Bị cáo Ngu yễn Văn T có 01 tiền án : Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 05/2018/HSPT ngày 17/5/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh L đã xử phạt Nguyễn Văn T 02 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”, đến ngày 26/4/2019 Nguyễn Văn T chấp hành xong hình phạt tù, đến nay chưa được xoá án tích.

Bị cáo Nguyễn Văn T b ị b ắt tạm giữ từ n gày 10/8/2020. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai (Có mặt).

2. Họ và tên: Vũ Thị Q (Tên gọi khác: H) - Sinh ngày 21/02/1974, tại huyện X, tỉnh N; Giới tính: Nữ.

Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi ở: Tổ 32, phường C, thành phố L, tỉnh L.

Trình độ văn hóa: 07/10; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch : Việt Nam .

Con ông: Vũ Văn H - Sinh năm 1938 (Đã chết năm 2020) và bà: Trần Thị N - Sinh năm 1940.

Bị cáo có chồng thứ nhất: Phùng Quang M – Sinh năm 1968 (Đã ly hôn), chồng thứ hai: Nguyễn Đức A – Sinh năm 1985 (Đã ly hôn). Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2011. Hiện trú tại: Tổ 32, phường C, thành phố L, tỉnh L.

Tiền án : Không;

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 28/11/2005 bị Công an phường Cốc Lếu, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, xử phạt hành chính với hình thức “Cảnh cáo” về hành vi đánh nhau gây thương tích.

Bị cáo Vũ Thị Q b ị b ắt tạm giữ từ n gày 10/8/2020. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai (Có mặt).

Người làm chứng: Anh Nguyễn Quang T; anh Lê Văn Đ; anh Vũ Văn N (Vắng mặt); bà Đỗ Thanh M (Có mặt);.

Người chứng kiến: Anh Nguyễn Bá Sang; anh Nguyễn Văn Tuân; chị Đỗ Thị Hằng (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 10/8/2020, tổ công tác phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Lào Cai làm nhiệm vụ tại khu vực Công viên Hồ Chí Minh thuộc tổ 5, phường Lào Cai, thành phố Lào Cai, phát hiện một người nam giới đang ngồi trên xe mô tô mang biển kiểm soát 24B2-799.73 có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, nam thanh niên khai nhận có tên là Nguyễn Văn T, tiến hành kiểm tra, phát hiện tại túi quần bên phải Nguyễn Văn T đang mặc trên người 01 gói nhỏ nilon loại có mép miết, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng, Nguyễn Văn T khai nhận là ma túy đá mua của Vũ Thị Q, trú tại Tổ 32, phường C, thành phố L, tỉnh L để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng, ngoài ra còn thu giữ của Nguyễn Văn T số tiền 2.000.000VNĐ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen (đã qua sử dụng) có lắp thẻ sim 0989225978 và thẻ sim 0982506868; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone (đã qua sử dụng) có lắp thẻ sim 0812951994; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone có lắp thẻ sim 0816825519 và 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA SH màu đỏ đen mang biển kiểm soát: 24B2-799.73.

Cùng ngày 10/8/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lào Cai đã tiến hành khám xét nơi ở của Vũ Thị Q tại tổ 32, phường C, thành phố L. Tại thời điểm khám xét trong nhà Vũ Thị Q có Nguyễn Quang T (Sinh năm 1970, trú tại: Thôn công trường 5, xã C, thành phố L, tỉnh L); Vũ Văn N (sinh năm 1997, trú tại: Tổ 01A, phường K, thành phố L, tỉnh L) và Lê Văn Đ (sinh năm 1998, trú tại: Xã C, huyện B, tỉnh L). Quá trình khám xét đã thu giữ gồm:

- Thu giữ tại nền nhà vệ sinh trong phòng ngủ của Vũ Thị Q: 01 túi nilon loại túi có mép miết, bên trong có hai túi nilon nhỏ có chứa các hạt tinh thể màu trắng.

- Thu giữ trong hộp sắt để trong túi màu đen có quai sách ở trên nóc tủ kê trong phòng ngủ của Vũ Thị Q: 01 túi nilon loại có mép miết, bên trong có một viên nén màu hồng và 01 túi nilon nhỏ bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng.

Ngoài ra còn thu giữ: 01 hộp sắt không có nắp bên ngoài có dòng chữ Ktimogin; 01 túi màu đen loại có quai sách (đã qua sử dụng); 15 túi nhỏ nilon loại túi có mép miết; 01 điện thoại Samsung màu đen có lắp thẻ sim 0337335448; 01 điện thoại Nokia màu đen có lắp th ẻ sim 0386947017 và thẻ sim 0374621365 (đã qua sử dụng); 01 chứng minh nhân dân mang tên Vũ Thị Q và số tiền 2.150.000VNĐ.

Vũ Thị Q khai, chưa bao giờ bán ma túy cho Nguyễn Văn T. Việc cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lào Cai thu giữ được 01 túi nilon loại có mép miết bên trong có hai túi nilon nhỏ, bên trong hai túi này có chứa chất ma túy, tại nền nhà vệ sinh trong quá trình khám xét nơi ở của Vũ Thị Q, số ma túy này Vũ Thị Q không biết là của ai và nguồn gốc ở đâu. Số ma túy, cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lào Cai thu giữ trong hộp sắt để trong túi màu đen có quai sách ở trên nóc tủ, kê trong phòng ngủ của Vũ Thị Q đựng trong 01 túi nilon loại có mép miết, bên trong có một viên nén màu hồng và 01 túi nilon nhỏ có chứa ma túy là các hạt tinh thể màu trắng là của Vũ Thị Q. Số ma túy này do Vũ Thị Q mua của một người nam giới tên Vinh (không biết tuổi, địa chỉ) được 01 túi nilon chứa ma túy đá với giá 500.000VNĐ vào ngày 10/6/2020. Sau đó Vũ Thị Q mang về chỗ ở sử dụng một phần, số ma túy còn lại trong túi nilon được Vũ Thị Q cho vào trong một chiếc hộp sắt, để vào chiếc túi màu đen có quai sách rồi đặt trên nóc tủ trong phòng ngủ. Đến ngày 17/6/2020 Vũ Thị Q được một người bạn nữ giới (không rõ tên, tuổi, địa chỉ) cho 02 viên nén màu hồng là loại ma túy đá, Vũ Thị Q đã sử dụng 01 viên, còn lại 01 viên Vũ Thị Q cho vào túi nilon chứa ma túy để vào trong hộp sắt, mục đích chỉ để sử dụng cho bản thân. Đến ngày 10/8/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra Cô ng an tỉnh Lào Cai tiến hành khám xét nơi ở của Vũ Thị Q và thu giữ 01 viên nén màu hồng và một túi nilon nhỏ bên trong chứa ma tuý đều là ma túy đá.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lào Cai đã trưng cầu giám định về ma túy gồm: Vật chứng thu giữ khi bắt quả tang Nguyễn Văn T ngày 10/8/2020 và vật chứng thu giữ khi khám xét nơi ở của Vũ Thị Q Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, trích mẫu, tái niêm phong và bản kết luận giám định số 171/GĐMT ngày 12/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai, kết luận:

+ Vật chứng thu giữ khi bắt quả tang Nguyễn Văn T ngày 10/8/2020 là 01 túi nilon loại có mép miết, bên trong chứa các hạt tinh thể rắn màu trắng có tổng khối lượng các hạt tinh thể rắn màu trắng: 0,66 (Không phẩy sáu mươi sáu) gam, là loại chất ma túy Methamphetamine.

+ Vật chứng thu giữ khi khám xét nơi ở của Vũ Thị Q:

01 túi nilon loại có mép miết, bên trong túi có 02 túi nilon nhỏ loại có mép miết chứa các hạt tinh thể rắn màu trắng, thu giữ tại nền nhà vệ sinh trong phòng ngủ của Vũ Thị Q, có tổng khối lượng của các hạt tinh thể rắn, màu trắng:

1,15 (Một phẩy mười lăm) gam, là loại chất ma túy Methamphetamine.

01 viên nén màu hồng trên một mặt của viên có dập chìm ký hiệu “WY”, thu giữ trong hộp sắt để trong túi màu đen có quai sách ở trên nóc tủ kê trong phòng ngủ của Vũ Thị Q. Khối lượng của viên nén màu hồng này: 0,11 (Không phẩy mười một) gam, là loại chất ma túy Methamphetamine.

01 túi nilon loại có mép miết bên trong có chứa các hạt tinh thể rắn, màu trắng, thu giữ trong hộp sắt để trong túi màu đen có quai sách ở trên nóc tủ kê trong phòng ngủ của Vũ Thị Q. Tổng khối lượng của các hạt tinh thể rắn, màu trắng trong túi này: 0,17 (Không phẩy mười bảy) gam, là loại chất ma túy Methamphetamine.

Bản cáo trạng số 124/CT-VKS ngày 25/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, truy tố các bị cáo Nguyễn Văn T và Vũ Thị Q về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự.

Lời khai nhận tội của các bị cáo Nguyễn Văn T và Vũ Thị Q tại phiên toà phù hợp lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên giữ quyền công tố luận tội, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn T và Vũ Thị Q phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng điểm c, khoản 1, 5 Điều 249; điểm s, khoản 1, Điều 51, điểm h, khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù.

Áp dụng điểm c, khoản 1, 5 Điều 249; điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Vũ Thị Q từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù.

Áp dụng hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo Nguyễn Văn T và Vũ Thị Q mỗi bị cáo từ 5.000.000VNĐ đến 10.000.000VNĐ sung vào ngân sách nhà nước.

Ngoài ra còn đề nghị tuyên án phí hình sự sơ thẩm; xử lý vật chứng và tuyên quyền kháng cáo cho các bị cáo theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Văn T và Vũ Thị Q không có ý kiến tranh luận với nội dung bản luận tội của Kiểm sát viên. Các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Lào Cai; Công an thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Hội đồng xét xử; Kiểm sát viên thực hiện quyền công tố; Thư ký phiên tòa, đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng; người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Đối với bị cáo Nguyễn Văn T, là người nghiện chất ma túy, ngày 10/8/2020 bị cáo đã mua 01 gói ma tuý có khối lượng 0,66 gam là chất Methamphetamine về sử dụng. Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Đối với bị cáo Vũ Thị Q, quá trình tranh tụng bị cáo không thừa nhận việc đã bán ma túy cho Nguyễn Văn T vào ngày 10/8/2020. Quá trình khám xét nơi ở của Vũ Thị Q, cơ quan điều tra đã thu giữ trên nền nhà vệ sinh 01 túi nhỏ nilon ma túy là chất Methamphetamine có khối lượng là 1,15 gam và thu trong túi xách của bị cáo Vũ Thị Q 01 viên nén màu hồng là chất ma túy Methamphetamine có khối lượng 0,11 gam và 01 túi nhỏ nilon có chất ma túy Methamphetamine có khối lượng là: 0,17 gam. Bị cáo Vũ Thị Q chỉ thừa nhận khối lượng chất ma túy thu trong túi xách của bị cáo Vũ Thị Q gồm 01 viên nén màu hồng và 01 túi nhỏ nilon có chứa ma túy, là chất ma túy Methamphetamine, có tổng khối lượng là 0,28 gam, bị cáo mua và được cho mang về cất dấu với mục đích để sử dụng. Còn 1,15 gam chất ma túy Methamphetamine thu giữ trên nên nhà vệ sinh, bị cáo Vũ Thị Q không biết của ai. Tại thời điểm khám xét nơi ở của Vũ Thị Q còn có các đối tượng Nguyễn Quang T; Vũ Văn N và Lê Văn Đ ở trong nhà. Căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, chỉ có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Vũ Thị Q đã có hành vi mua 0,17 gam ma túy là chất Methamphetamine và được cho 01 viên nén 0,11 gam ma túy là chất Methamphetamine, tổng cộng là 0,28 gam, bị cáo Vũ Thị Q tàng trữ trong phòng ngủ với mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo Vũ Thị Q đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, truy tố các bị cáo Nguyễn Văn T và Vũ Thị Q về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn T, tàng trữ trái phép 0,66 gam chất ma túy Methamphetamine và bị cáo Vũ Thị Q đã tàng trữ trái phép 0,28 gam chất ma túy Methamphetamine, các bị cáo phạm tội độc lập với nhau, không có tính chất đồng phạm.

Hành vi phạm tội của các bị cáo Nguyễn Văn T và Vũ Thị Q là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an, làm gia tăng tệ nạn về ma tuý trên địa bàn thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Các bị cáo Nguyễn Văn T và Vũ Thị Q đều là đối tượng nghiện chất ma túy, các bị cáo nhận biết rõ Methamphetamine là chất ma túy mà pháp luật Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi tàng trữ, mua bán, sử dụng, vận chuyển..v.v. Nhưng vì nghiện chất ma túy, các bị cáo đã không có ý thức chấp hành pháp luật. Vì vậy, đối với các bị cáo cần phải có một mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục riêng đối với từng bị cáo, đồng thời góp phần phòng ngừa chung.

Bị cáo Nguyễn Văn T là người có nhân thân xấu, có 01 tiền án, ngày 17/5/2018 Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai đã xử phạt Nguyễn Văn T 02 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”, đến ngày 26/4/2019 Nguyễn Văn T chấp hành xong hình phạt tù, đến nay chưa được xoá án tích, lần phạm tội này của bị cáo Nguyễn Văn T được xác định là “Tái phạm” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h, khoản 1, Điều 52 Bộ luật hình sự.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà các bị cáo Nguyễn Văn T và Vũ Thị Q đã thật thà khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy cũng cần coi đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xem xét khi lượng hình đối với các bị cáo, theo quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về nguồn gốc số chất ma túy Methamphetamine, theo lời khai của bị cáo Nguyễn Văn T đã mua 0,66 gam ma túy là chất Methamphetamine của Vũ Thị Q vào ngày 10/8/2020, ngoài lời khai của Nguyễn Văn T không còn tài liệu nào khác chứng minh. Vì vậy, không đủ căn cứ để xử lý đối với Vũ Thị Q về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy.

Đối với 0,17 gam chất ma túy Methamphetamine Vũ Thị Q khai mua được của người nam giới tên Vinh (không rõ tuổi, địa chỉ) vào ngày 10/6/2020 và người nữ giới (không rõ tên, tuổi, địa chỉ) đã cho Vũ Thị Q 0,11 gam ma túy là chất Methamphetamine vào ngày 17/6/2020. Ngoài lời khai của Vũ Thị Q không còn tài liệu nào khác để chứng minh, nên không có đủ cơ sở đề cập xử lý đối với đối tượng bán và cho ma tuý cho bị cáo Vũ Thị Q, trong vụ án này.

[3] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy, đối với các bị cáo Nguyễn Văn T và Vũ Thị Q cần áp dụng khoản 5, điều 249 Bộ luật hình sự, áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với mỗi bị cáo số tiền 5.000.000VNĐ (Năm triệu đồng) để sung vào ngân sách nhà nước.

[4] Về vật chứng của vụ án: Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã thu giữ của Nguyễn Văn T gồm: 0,66 gam chất ma túy Methamphetamine; số tiền 2.000.000VNĐ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen có lắp thẻ sim (đã qua sử dụng); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone có lắp thẻ sim (đã qua sử dụng); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone có lắp thẻ sim (đã qua sử dụng) và 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA SH màu đỏ đen mang biển kiểm soát: 24B2-799.73.

Thu giữ của Vũ Thị Q gồm: 01 hộp sắt không có nắp bên ngoài có dòng chữ Ktimogin; 0,28 gam chất ma túy Methamphetamine; 01 túi màu đen loại có quai sách (đã qua sử dụng); 15 túi nhỏ nilon loại túi có mép miết; 01 điện thoại Samsung màu đen có lắp thẻ sim (đã qua sử dụng); 01 điện thoại Nokia màu đen có lắp thẻ sim (đã qua sử dụng); số tiền 2.150.000VNĐ và 01 chứng minh nhân dân mang tên Vũ Thị Q.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA SH màu đỏ đen mang Biển kiểm soát: 24B2-799.73. Quá trình điều tra xác định đây là tài sản của bà Đỗ Thanh M(Mẹ đẻ của Nguyễn Văn T). Ngày 10/8/2020 Nguyễn Văn T mượn xe mô tô của bà Đỗ Thanh M để sử dụng đi mua ma túy, bà Đỗ Thanh Mkhông biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo . Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai đã xử lý vật chứng, trả lại cho bà Đỗ Thanh M01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA SH mang biển kiểm soát 24B2-799.73. Sau khi nhận lại tài sản bà Đỗ Thanh M không yêu cầu đề nghị gì. Hội đồng xét xử xét thấy là phù hợp, nên không đề cập xử lý.

Đối với 0,66 gam ma túy là chất Methamphetamine thu giữ của Nguyễn Văn T, cơ quan giám định đã trích 0,12 gam để tiến hành giám định, còn lại 0,54 gam Methamphetamine. Đây là chất ma tuý nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, cần tịch thu tiêu huỷ.

Đối với 1,15 gam ma túy là chất Methamphetamine, thu giữ tại nền nhà vệ sinh trong phòng ngủ của Vũ Thị Q cơ quan giám định đã trích: 0,16 gam để giám định, còn lại 0,99 gam Methamphetamine. Đây là chất ma tuý nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, cần tịch thu tiêu huỷ.

Đối với 0,28 gam chất ma túy Methamphetamine thu giữ trong hộp sắt để trong túi màu đen có quai sách ở trên nóc tủ trong phòng ngủ của Vũ Thị Q, cơ quan giám định đã trích: 0,17 (không phẩy mười bẩy) gam để giám định. Còn lại 0,11 gam Methamphetamine. Đây là chất ma tuý nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, cần tịch thu tiêu huỷ.

Đối với 01 hộp sắt không có nắp bên ngoài có dòng chữ Ktimogin; 01 túi màu đen loại có quai sách (đã qua sử dụng); 15 túi nhỏ nilon loại túi có mép miết, xét thấy không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy;

Đối với 01 chứng minh nhân dân mang tên Vũ Thị Q, cần trả lại cho bị cáo Vũ Thị Q.

Đối với số tiền 2.000.000VNĐ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen có lắp thẻ sim (đã qua sử dụng); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone có lắp thẻ sim (đã qua sử dụng); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone có lắp thẻ sim (đã qua sử dụng) thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn T, xét thấy đây là tài sản của bị cáo Nguyễn Văn T không liên quan đến hành vi phạm tội. Tuy nhiên cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Đối với 01 điện thoại SamSung màu đen có lắp thẻ sim (đã qua sử dụng);

01 điện thoại Nokia màu đen có lắp thẻ sim (đã qua sử dụng) và số tiền 2.150.000VNĐ thu giữ khi khám xét nơi ở của Vũ Thị Q, xét thấy đây là tài sản của bị cáo Vũ Thị Q không liên quan đến hành vi phạm tội. Tuy nhiên cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[5] Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Văn T và Vũ Thị Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c, khoản 1, 5 Điều 249; điểm s, khoản 1, Điều 51, điểm h, khoản 1, Điều 52 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ 10/8/2020.

Hình phạt bổ sung: Phạt số tiền 5.000.000VNĐ (Năm triệu đồng) đối với bị cáo Nguyễn Văn T để nộp ngân sách nhà nước.

Căn cứ vào điểm c, khoản 1, 5 Điều 249; điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Vũ Thị Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Vũ Thị Q 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ 10/8/2020.

Hình phạt bổ sung: Phạt số tiền 5.000.000VNĐ (Năm triệu đồng) đối với bị cáo Vũ Thị Q để nộp ngân sách nhà nước.

Về vật chứng của vụ án: Căn cứ vào điểm c khoản 1, Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a, c khoản 2, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu của bị cáo Nguyễn Văn T 0,54 gam Methamphetamine còn lại sau giám định được đựng trong bì thư, tái niêm phong ngày 10/8/2020 để tiêu huỷ.

Tịch thu của bị cáo Vũ Thị Q 0,11 gam Methamphetamine còn lại sau giám định được đựng trong bì thư, tái niêm phong ngày 10/8/2020 để tiêu huỷ.

Tịch thu 0,99 gam Methamphetamine còn lại sau giám định được đựng trong bì thư, tái niêm phong ngày 10/8/2020 để tiêu huỷ.

Tịch thu của bị cáo Vũ Thị Q 01 hộp sắt không có nắp bên ngoài có dòng chữ Ktimogin; 01 túi màu đen loại có quai sách (đã qua sử dụng); 15 (mười lăm) túi nhỏ nilon loại túi có mép miết để tiêu hủy.

Trả lại cho bị cáo Vũ Thị Q 01 chứng minh nhân dân mang tên Vũ Thị Q.

Tiếp tục tạm giữ của bị cáo Nguyễn Văn T số tiền 2.000.000VNĐ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen (đã qua sử dụng) có lắp thẻ sim 0989225978 và thẻ sim 0982506868; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone (đã qua sử dụng) có lắp thẻ sim 0812951994; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone (đã qua sử dụng) có lắp thẻ sim 0816825519, để đảm bảo thi hành án.

Tiếp tục tạm giữ của bị cáo Vũ Thị Q số tiền 2.150.000VNĐ; 01 điện thoại Samsung màu đen (đã qua sử dụng) có lắp thẻ sim 0337335448; 01 điện thoại Nokia màu đen (đã qua sử dụng) có lắp thẻ sim 0386947017 và thẻ sim 0374621365, để đảm bảo thi hành án;

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/12/2020 của Công an thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai).

Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Văn T và Vũ Thị Q mỗi bị cáo phải chịu 200.000VNĐ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, được thi hành theo qui định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, điều 7. Điều 7a và điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

257
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 01/2021/HSST ngày 11/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:01/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;