Bản án 01/2021/HS-ST ngày 04/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 01/2021/HS-ST NGÀY 04/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 380/2020/TLST- HS ngày 18 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 412/2020/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 12 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Minh L (tên gọi khác:, sinh năm 1991 tại tỉnh Bình Dương; nơi cư trú: khu phố T, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Phụ hồ; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1969 và bà Nguyễn Kim L, sinh năm 1971;

Nhân thân:

+ Ngày 22/12/2011 bị Tòa án nhân dân huyện (nay là thị xã) Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xử phạt 12 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Bản án số 140/2011/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/7/2012.

+ Ngày 13/6/2013 bị Tòa án nhân dân huyện (nay là thị xã) Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 72/2013/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 06/5/2014.

Tiền án: Ngày 20/12/2018 bị Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 201/2018/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/10/2019 Tiền sự: Không;

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/8/2020 cho đến nay.

1 2. Nguyễn Văn T (tên gọi khác: L), sinh năm 1996 tại tỉnh An Giang; nơi cư trú: Ấp A, xã An T, huyện C, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1970 và bà Trần Thị L, sinh năm 1968 (đã chết).

Tiền án: Ngày 21/11/2018 bị Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 07 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 259/2018/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/03/2019.

Tiền sự: Không;

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/8/2020 cho đến nay.

Các bị cáo có mặt.

Bị hại: Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1991; nơi cư trú: Thôn A, xã H, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh. Vắng mặt.

Người làm chứng:

- Ông Ngô Thành T, bà Nguyễn Thị H. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có tiền tiêu xài và mua ma túy sử dụng nên khoảng 00 giờ 30 phút ngày 23/8/2020, Nguyễn Minh L nảy sinh ý định tìm tài sản để trộm cắp. L đi bộ từ vòng xoay An Phú đến cơ sở trọ số 196A/2, khu phố 1, phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương, L đi vào dãy trọ rồi dùng chìa khóa mang theo mở khóa phòng trọ số 23E của bà Nguyễn Thị M thuê để ở. L vào trong phòng trọ lấy 01 cái kéo bẻ ổ khóa xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Vision, biển số 38P1 – 172.43 của bà M rồi khởi động nhưng không nổ máy được, L đóng cửa phòng trọ lại rồi đi bộ ra đầu đường An Phú 13 tìm người hỗ trợ đẩy xe giúp. Đến khoảng 02 giờ 30 phút cùng ngày, L gặp Nguyễn Văn T đang điều khiển xe mô tô biển số 54S5 – 6326 đi đến thì L có nói với T: Mày chạy lại kè xe của tao về giùm, tao mới lấy trộm được” thì T đồng ý. T điều khiển xe mô tô biển số 54S5–6326 chở L quay lại nhà trọ nói trên, khi đến khu nhà trọ thì T đứng chờ bên ngoài, L đi vào bên trong phòng trọ dắt chiếc xe mô tô biển số 38P1 – 172.43 ra ngoài, khi vào dắt xe thì L mở tủ trong phòng trọ lấy 01 túi nilong màu đỏ bên trong gồm có: 03 sổ tiết kiệm, bằng cấp, giấy tờ có tên Nguyễn Thị M cùng 03 chiếc nhẫn và 01 mặt dây chuyền bằng kim loại màu vàng, tất cả những đồ vật trên được L treo lên xe mô tô biển số 38P1 – 172.43 để dắt ra. Khi L dắt xe ra đến nơi thì T điều khiển xe mô tô biển số 54S5 – 6326 rồi dùng chân đẩy chiếc xe mô tô biển số 38P1 – 172.43 do L ngồi cầm lái về nhà của L. Khi đi đến đoạn đường An Phú 13 thuộc khu phố 1, phường A, thành phố T thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt giữ cùng tang vật.

Theo kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thành phố Thuận An thì: 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Vision, gắn biển số 38P1 – 172.43 có giá trị là: 16.000.000đồng; 01 nhẫn vàng 18K nặng 5 phân 58; 01 nhẫn vàng 18K nặng 6 phân 52; 01 nhẫn vàng 18K nặng 4 phân 52; 01 mặt dây chuyền vàng 18K nặng 2 phân 8 có tổng giá trị là: 6.408.600đồng.

Bản Cáo trạng số 08/CT-VKS-TA ngày 17-12-2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Nguyễn Minh L và Nguyễn Văn T về tội ‘‘Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa:

- Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51;

điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Minh L từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù và Nguyễn Văn T từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Gao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An 01 xe mô tô nhãn hiệu kiểu dáng Wave, biển số 54S5 – 6326 để tiếp tục điều tra, xác minh, xử lý theo quy định.

- Các bị cáo Nguyễn Minh L, Nguyễn Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, thống nhất tội danh, khung hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị áp dụng, không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng, các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thuận An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thuận An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo Nguyễn Minh L, Nguyễn Văn T tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan Điều tra, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị hại, người làm chứng, vật chứng thu giữ có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 02 giờ 30 phút ngày 23/8/2020, các bị cáo Nguyễn Minh L, Nguyễn Văn T lén lút chiếm đoạt tài sản của bà Nguyễn Thị M để tại phòng trọ số 23E thuộc cơ sở trọ số 196A/2, khu phố 1, phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương với tổng giá trị theo định giá là 22.408.600 đồng. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An truy tố bị cáo về tội danh, khung hình phạt nêu trên là có căn cứ, đúng người và đúng pháp luật.

[4] Xét hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, nhận thức được việc làm của mình là vi phạm nhưng vì động cơ tư lợi, các bị cáo cố tình thực hiện. Sau khi phát hiện có tài sản của người khác, các bị cáo lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý rồi lén lút chiếm đoạt tài sản của họ. Hành vi của các bị cáo trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Bản thân các bị cáo từng bị Tòa án xét xử về hành vi Trộm cắp tài sản, không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục phạm tội, thể hiện bản chất xem thường pháp luật, do đó, cần xử phạt các bị cáo với mức án tương xứng nhằm đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[5] Về đồng phạm: Trong vụ án có vai trò đồng phạm nhưng đồng phạm giản đơn, không có sự bàn bạc, phân công cụ thể. Bị cáo L là người nảy sinh ý định, trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo T tham gia vai trò giúp sức, thể hiện vai trò của bị cáo L cao hơn nên phải chịu mức án cao hơn.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, tài sản trộm cắp đã thu hồi trả cho bị hại là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[8] Lời đề nghị mức hình phạt của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa có căn cứ, đúng luật, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo nên chấp nhận.

[9] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan Điều tra thu giữ:

- 01 xe mô tô kiểu dáng Wave, biển số 54S5 – 6326 thu giữ của bị cáo T, T khai nhận mượn chiếc xe này của 01 người bạn tên K (không rõ nhân thân, lai lịch) tại khu trọ thuộc đường An Phú 17, khu phố 1, phường A, thành phố T để đi công việc nhưng qua xác minh tại địa chỉ trên không có ai tên Kỳ. Cơ quan điều tra đã tra cứu nguồn gốc chiếc xe nhưng không có kết quả, đồng thời đã thông báo truy tìm chủ sở hữu chiếc xe nhưng đến nay vẫn không có ai đến liên hệ giải quyết nên cần giao lại chiếc xe này cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An tiếp tục điều tra, xác minh, xử lý theo quy định.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Mastel là tài sản của bị cáo T, không liên quan đến vụ án nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị cáo T.

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Vision, biển số 38P1 – 172.43; 03 (ba) chiếc nhẫn vàng 18k; 01 (một) mặt dây chuyền vàng 18k; 02 (hai) sổ tiết kiệm của ngân hàng AgriBank; 01 (một) thẻ tiết kiệm của ngân hàng BIDV; 01 (một) bằng tốt nghiệp THPT; 01 (một) Sổ tạm trú là tài sản, giấy tờ của bà Nguyễn Thị M nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho bà M.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ thể hiện không yêu cầu gì nên không đề cập.

[11] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với các bị cáo Nguyễn Minh L, Nguyễn Văn T;

- Các Điều 106, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Minh L, Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh L 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/8/2020.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/8/2020.

2. Về xử lý vật chứng:

- Giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An 01 xe mô tô kiểu dáng Wave, gắn biển số 54S5 – 6326, số máy VHLFM152FMH- V00100139, số khung RMNDCH5MN8H00139 để tiếp tục điều tra, xác minh, xử lý theo quy định.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/12/2020 giữa Công an và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thuận An).

3. Về án phí:

Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 01/2021/HS-ST ngày 04/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:01/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;