Bản án 01/2021/HNGĐ-ST ngày 08/01/2021 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM BẢNG, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 01/2021/HNGĐ-ST NGÀY 08/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 08 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 91/2020/TLST – HNGĐ ngày 08 tháng 10 năm 2020 về “Tranh chấp về ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 18/2020/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Ngọc O, sinh năm 1998; địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện K, tỉnh Hà Nam; có mặt.

- Bị đơn: Anh Lê Đức T, sinh năm 1997; địa chỉ: Tổ X, thị trấn Q, huyện K, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn là chị Nguyễn Ngọc O trình bày: Chị kết hôn với anh Lê Đức T trên cơ sở tự nguyện, tự do tìm hiểu, có đăng ký kết hôn ngày 30-10-2017 tại Ủy ban nhân dân (UBND) thị trấn Q, huyện K, tỉnh Hà Nam. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận tại nhà bố mẹ đẻ anh T chỉ được khoảng ba tháng thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh T có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác và thường xuyên uống rượu rồi về chửi bới, đánh đập chị vô cớ, chị và gia đình đã khuyên bảo nhiều lần nhưng anh T vẫn không thay đổi dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra xô xát đánh, cãi chửi nhau. Do vợ chồng mâu thuẫn căng thẳng nên tháng 5-2018 chị đã về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, anh chị li thân nhau từ đó đến nay không còn quan tâm đến tình cảm, cuộc sống của nhau nữa. Nay chị O xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Lê Đức T.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng đã gửi Thông báo về việc thụ lý vụ án cho anh Lê Đức T, đồng thời nhiều lần triệu tập anh T đến trụ sở Tòa án để giải quyết về việc chị O xin ly hôn anh, nhưng anh T đều cố tình vắng mặt. Tòa án đã đến tận nhà anh T tại tổ X, thị trấn Q, huyện K để xác minh và được ông Lê Đức K là bố đẻ anh T cung cấp: Anh T và chị O đăng ký kết hôn với nhau ngày 30-10-2017 và được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương. Sau khi kết hôn anh chị chung sống cùng gia đình ông. Quá trình chung sống thì anh T và chị O thỉnh thoảng có xảy ra to tiếng, cãi chửi nhau. Đến giữa năm 2018 chị O đã về nhà bố mẹ đẻ sinh sống cho đến nay không về chung sống cùng anh T lần nào nữa. Ông K khẳng định anh T làm nghề tự do, thỉnh thoảng anh T về nhà rồi lại đi làm, trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, ông đã nhận được Thông báo về việc thụ lý vụ án và Giấy triệu tập của Tòa án đối với anh T, ngay sau mỗi lần nhận ông đều thông báo trực tiếp cho anh T biết. Tuy nhiên, anh T có đến Tòa án làm việc hay không thì ông không nắm được.

Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng cũng đã tiến hành làm việc với chính quyền địa phương thị trấn Q, huyện K và được chính quyền địa phương cung cấp: Anh Lê Đức T là công dân có hộ khẩu thường trú tại tổ X, thị trấn Q, huyện K và vẫn thường xuyên có mặt tại địa phương. Việc mâu thuẫn vợ chồng chị O, anh T xảy ra là do anh T có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, từ đó anh chị thường xuyên xảy ra to tiếng, cãi, chửi nhau. Từ khoảng tháng 5-2018 chị O đã về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, từ đó đến nay địa phương không thấy chị quay về chung sống với anh T nữa. Nay địa phương đề nghị Tòa án giải quyết cho chị O được ly hôn anh T theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Chị O xác định vợ chồng anh chị có một con chung tên là Lê Trúc L, sinh ngày 18-7-2018, hiện nay đang ở với chị. Chị O xin được nuôi dưỡng cháu L và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về con riêng: Chị O xác định không có con riêng nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Về tài sản riêng, tài sản chung, công sức đóng góp, công nợ, đất nông nghiệp: Chị O xác định không có nên không yêu cầu Toà án xem xét, giải quyết.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Thẩm phán thụ lý giải quyết vụ án, tiến hành thu thập chứng cứ đã tuân thủ theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; tại phiên toà, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với nguyên đơn là chị O đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn là anh T vắng mặt không có lí do trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án, vi phạm các quy định tại các Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Xử ly hôn giữa chị Nguyễn Ngọc O và anh Lê Đức T. Về con chung: Giao cháu Lê Trúc L, sinh ngày 18-7-2018 cho chị O trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu đủ 18 tuổi, lao động tự lập được; anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung theo sự tự nguyện của chị O. Về án phí: Chị O phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được đối trừ số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí chị đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn là anh Lê Đức T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lí do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Ngọc O và anh Lê Đức T là hợp pháp, anh chị đăng ký kết hôn với nhau ngày 30-10-2017 tại UBND thị trấn Q, huyện K, tỉnh Hà Nam. Sau ngày kết hôn anh chị chung sống hòa thuận chỉ được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh T có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác nên thường xuyên hắt hủi, đánh, chửi chị O, từ đó dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra xô xát, căng thẳng. Nay chị O xác định tình cảm vợ chồng không còn và kiên quyết xin ly hôn anh T; còn anh T mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng cố tình không đến Tòa để giải quyết việc ly hôn. Theo xác minh tại địa phương và người thân của anh T thì mâu thuẫn vợ chồng chị O, anh T xảy ra là thực tế, mặc dù đã được chính quyền, đoàn thể địa phương và gia đình hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả, từ khoảng tháng 5- 2018 đến nay anh chị li thân nhau, không còn quan tâm đến cuộc sống, tình cảm của nhau nữa. Điều này chứng tỏ hôn nhân giữa chị O và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do vậy, xử cho chị O được ly hôn anh T là hoàn toàn phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị O và anh T có một con chung tên là Lê Trúc L, sinh ngày 18-7- 2018, hiện nay đang ở với chị O. Xét thấy từ khi anh chị li thân nhau đến nay cháu L đều ở cùng với chị O và được chị nuôi dưỡng, chăm sóc ổn định; ngoài ra bản thân chị O đang làm công nhân tại Công ty T, địa chỉ tại Khu công nghiệp Đồng Văn IV, xã Đại Cương, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, có thu nhập ổn định, vì vậy cần chấp nhận yêu cầu của chị O, giao cho chị O được quyền nuôi dưỡng cháu L, anh T không phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con cho chị O là hoàn toàn phù hợp với Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về con riêng; tài sản chung; tài sản riêng; công nợ; công sức đóng góp và diện tích đất nông nghiệp: Chị O xác định vợ chồng không có nên chị không yêu cầu giải quyết, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị O phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147; Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án.

1. Xử cho ly hôn giữa chị Nguyễn Ngọc O và anh Lê Đức T.

2. Về con chung: Giao cháu Lê Trúc L, sinh ngày 18-7-2018 cho chị O trực tiếp nuôi dưỡng. Anh T không phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho chị O.

Chị O cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu L.

3. Án phí: Chị Nguyễn Ngọc O phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị O đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0004207 ngày 08 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. (Chị O đã thi hành xong phần án phí ly hôn sơ thẩm).

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho chị O biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; anh T vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

251
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 01/2021/HNGĐ-ST ngày 08/01/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:01/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Bảng - Hà Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;