Bản án 01/2021/DS-ST ngày 12/01/2021 về yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả tiền

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 01/2021/DS-ST NGÀY 12/01/2021 VỀ YÊU CẦU THỰC HIỆN NGHĨA VỤ TRẢ TIỀN

Trong các ngày 12 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 153/2020/TLST-DS ngày 22 tháng 10 năm 2020 về yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả tiền, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 153/2020/QĐXXST-DS ngày 04 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị Xuân V, sinh năm 1981; Địa chỉ: Tổ 28 phường T, quận K, thành phố Đà Nẵng; Có mặt.

2. Bị đơn: Ông Lê Văn S, địa chỉ: K123/38 đường C, phường H, quận K, thành phố Đà Nẵng; Văng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 19 tháng 10 năm 2020 và tại phiên tòa nguyên đơn – bà Lê Thị Xuân V trình bày:

Do bà Lê Thị Xuân V quen biết với ông Lê Văn S từ trước nên vào ngày 03.02.2019, bà V có cho ông S mượn số tiền cá nhân của mình là 120.000.000 đồng, thời hạn mượn 01 tháng đến ngày 03.3.2019, bà V không tính lãi. Khi vay mượn, hai bên có viết Giấy mượn tiền. Tuy nhiên, đến nay ông S vẫn không thanh toán cho bà V mặc dù bà V đã nhiều lần nhắc nhở. Nhận thấy ông S không có thiện chí trả nợ, cố ý chây ỳ, bà V khởi kiện yêu cầu giải quyết buộc ông Lê Văn S có trách nhiệm thanh toán cho bà tổng số tiền là: 142.000.000đ (Một trăm bốn mươi hai triệu đồng). Trong đó, nợ gốc là: 120.000.000 đồng; nợ lãi tính từ ngày 04.3.2019 đến tháng 01.2021 là tròn 22 tháng, với lãi suất 10%/năm là: 22.000.000 đồng.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng phát biểu quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án:

Về tuân theo pháp luật tố tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa đã tuấn thủ và thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Căn cứ vào Giấy mượn tiền ngày 03 tháng 02 năm 2019, thể hiện ông Lê Văn S xác nhận còn của bà Lê Thị Xuân V số tiền là 120.000.000 đồng và hẹn đến ngày 03.3.2019 sẽ trả số tiền trên. Do ông S vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên bà V yêu cầu tính lãi (kể từ 04.3.2019 đến ngày 04.01.2021, theo lãi suất 10%/năm) với số tiền là 22.000.000 đồng là có căn cứ. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 357, 468 để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà Lê Thị Xuân V khởi kiện vụ án dân sự về tranh chấp “Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả tiền” đối với bị đơn ông Lê Văn S, nơi cư trú: Tổ 05 phường H, quận K, thành phố Đà Nẵng. Ngày 22.10.2020 Tòa án nhân dân quận Thanh Khê đã thụ lý giải quyết vụ án là đúng theo trình tự tố tụng và thẩm quyền giải quyết vụ án được quy định tại Điều 191, Điều 195 và khoản 1 Điều 26, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung tranh chấp: Bà Lê Thị Xuân V cho rằng, do có quan hệ quen biết nên ông Lê Văn S có mượn bà V nhiều lần với tổng số tiền là 120.000.000 đồng để làm ăn, ngày 03.2.2019, ông S viết giấy mượn tiền xác nhận số tiền nợ trên và hẹn đến ngày 03.3.2019 sẽ trả, nhưng đến hẹn ông S không thực hiện nghĩa vụ trả tiền như đã cam kết, nên yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông S phải trả tiền gốc và lãi là 142.000.000 đồng. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh tụng tại phiên tòa và quan điểm của đại diện Viện kiểm sát thể hiện: Theo Giấy mượn tiền ngày 03.02.2019, do bà Lê Thị Xuân V cung cấp có nội dung thể hiện ông Lê Văn S xác nhận có mượn của bà Lê Thị Xuân V 120.000.000 đồng và cam kết đến ngày 03.3.2019 sẽ trả cho bà V. Do ông S không thực hiện nghĩa vụ trả tiền như đã cam kết nên bà V yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông S phải có nghĩa vụ trả tiền nợ gốc và tiền lãi là 142.000.000 đồng, (trong đó nợ gốc là 120.000.000 đồng và tiền lãi là 22.000.000 đồng, lãi tính từ ngày 04.3.2019 đến tháng 01.2021 là tròn là 22 tháng, theo lãi suất 10%/năm) là có căn cứ, phù hợp với Điều 466 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về án phí: Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nên bị đơn ông Lê Văn S phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 7.100.000đ (142.000.000đ x 5%) theo quy định tại Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 (V/v quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án). Hoàn trả cho bà Lê Thị Xuân V tiền tạm ứng án phí đã nộp là 3.448.000 đồng theo biên lai thu số 2334, ngày 22 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 466 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 (V/v quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án).

Tuyên xử :

1. Buộc ông Lê Văn S phải có nghĩa vụ trả cho bà Lê Thị Xuân V tổng số tiền là 142.00.000đ (Một trăm bốn mươi hai triệu đồng), (trong đó tiền nợ gốc là 120.000.000 đồng và tiền lãi 22.000.000 đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc ông Lê Văn S phải chịu 7.100.000đ (Bảy triệu một trăm nghìn đồng). Hoàn trả cho bà Lê Thị Xuân V số tiền tạm ứng án phí đã nộp 3.448.000đ (Ba triệu bốn trăm bốn mươi tám nghìn đồng) theo biên lai thu số 2334, ngày 22 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

3. Án xử sơ thẩm công khai, báo cho nguyên đơn biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết kết quả xét xử sơ thẩm tại nơi cư trú.

4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 01/2021/DS-ST ngày 12/01/2021 về yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả tiền

Số hiệu:01/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;