Bản án 01/2020/HS-ST ngày 10/01/2020 về trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁP MƯỜI, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 01/2020/HS-ST NGÀY 10/01/2020 VỀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án Huyện, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 70/2019/TLST-HS ngày 02 tháng 12 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 71/2019/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 12 năm 2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Hà Tấn T, sinh năm 1986; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Ấp T Đ, xã T T, TPCL, Đồng Tháp; nghề nghiệp làm thuê; trình độ văn hóa 3/12; dân tộc kinh; giới tính nam; tôn giáo không; quốc tịch Việt Nam; con ông Hà Tấn T, sinh năm 1957 (còn sống) và bà Nguyễn Thị Bé E, sinh năm 1966 (còn sống); có vợ tên Nguyễn Thị Huyền T, sinh năm 1989 và có 01 con sinh năm 2010; tiền án, tiền sự không; nhân thân (ngày 11/12/2002 bị Tòa án thị xã Cao Lãnh (nay là thành phố Cao Lãnh) xử phạt 03 (ba) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/8/2005, bị cáo chấp hành xong phần án phí hình sự và án phí dân sự sơ thẩm, về trách nhiệm dân sự bị cáo chưa bồi thường); bị cáo bị tạm giữ ngày 07/10/2019, tạm giam ngày 16/10/2019 và có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại: Lương Thị Kim P - sinh năm 1957 (Có Đơn xin vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp MT 1, xã MQ, huyện TM, Đồng Tháp.

* Người làm chứng: Nguyễn Thị Huyền T - sinh năm 1989 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp BT, xã BT, huyện CL, Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ ngày 07/10/2019, khi đang ở nhà tại ấp TĐ, xã TT, thành phố Cao Lãnh thì T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của người khác bán lấy tiền tiêu xài. T gọi điện thoại cho vợ là chị Nguyễn Thị Huyền T, lúc này chị T đang ở ấp Bình Tân, xã Bình Thạnh, huyện Cao Lãnh rủ đi công chuyện. T khai mục đích của Trường là đi trộm cắp tài sản nhưng không nói cho chị T biết. Sau khi nghe điện thoại, chị T đồng ý. T đem theo một túi xách màu nâu trong đó có một số dụng cụ để cạy phá cửa như mỏ lết, thanh sắt tự chế. T điều khiển xe mô tô biển số 37L2-9210 đến rước chị T, rồi chạy đến khu vực ấp Mỹ Tây 1, xã Mỹ Quí, huyện Tháp Mười; khi đi ngang qua nhà chị Lương Thị Kim P thấy nhà đóng cửa, không có người trông coi, nên T nảy sinh ý định đột nhập vào nhà chị P lấy trộm tài sản. T điều khiển xe quay trở lại, đậu xe cách nhà chị P khoảng 50m, rồi nói dối với chị T ngồi trên xe đợi T đi công chuyện.

T đem theo túi xách màu nâu đi đến nhà chị P kêu “Chủ nhà ơi” 02, 03 lần, mục đích để kiểm tra có ai ở nhà không, nhưng không thấy ai trả lời nên T đi đến cửa phụ phía bên trái nhà. T nhìn thấy cửa có dây xích nhưng không khóa nên thò tay vào bên trong mở chốt cửa đi vào nhà. T dùng 01 thanh kim loại, dài 22cm, có hai đầu dẹp cạy cửa tủ nhôm kiếng, mở cửa ra thì phát hiện 01 máy tính xách tay (Laptop) hiệu Acer được để trong vỏ màu trắng ở ngăn thứ 02 của tủ nhôm kiếng, nên lấy máy tính để xuống nền gạch. T khai mục đích để sau khi tìm kiếm hết tài sản trong tủ nhôm kiếng sẽ lấy máy tính xách tay đem bán lấy tiền tiêu xài. Trong lúc T đang tìm tài sản thì bị chị P phát hiện truy hô. T hoảng sợ để lại máy tính xách tay, bỏ chạy đến chỗ chị T đứng đợi rồi điều khiển xe đến bến đò Đường Thét thì bị Công an xã Mỹ Quí truy đuổi bắt giữ và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 07/10/2019, tại nhà chị Lương Thị Kim P ở ấp Mỹ Tây 1, xã Mỹ Quí, huyện Tháp Mười thể hiện: Tủ nhôm kiếng bị cạy phá, thu giữ 01 máy tính xách tay (Laptop) hiệu Acer dưới nền gạch gần tủ nhôm kiếng.

Bản Kết luận định giá số 55 ngày 08/10/2019, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tháp Mười kết luận: Trị giá máy tính xách tay (Laptop) hiệu Acer tại thời điểm xảy ra vụ án là 2.100.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Lương Thị Kim P đã nhận lại Laptop và yêu cầu bị cáo bồi thường 500.000 đồng chi phí sửa chữa cửa nhôm kiếng, hiện bị cáo đã bồi thường xong.

Về vật chứng, quá trình điều tra thu giữ:

- Thu giữ của bị cáo Hà Tấn T 01 giỏ xách màu nâu; 01 cây gậy ba khúc dài 60cm; 01 cây mỏ lết dài 38cm; 01 thanh kim loại dài 22cm, có hai đầu dẹp; 01 thanh kim loại tự chế dài 32cm; 01 dụng cụ đa năng dài 09cm; 01 xe mô tô biển số 37L2-9210 và 01 cặp bao tay màu xám.

- Thu giữ của chị Lương Thị Kim P 01 máy tính xách tay (Laptop) hiệu Acer. Xét thấy không cần thiết tạm giữ Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị P01 laptop hiệu Acer.

Đối với chị Nguyễn Thị Huyền T đi chung xe với bị cáo Trường, nhưng chị T không biết bị cáo T đi trộm cắp tài sản nên không xem xét xử lý.

Đối với xe mô tô đã thu giữ, quá trình điều tra xác định xe mô tô biển số 37L2-9210 do ông Nguyễn Xuân T đứng tên chủ sở hữu nhưng có số khung, số máy khác với số khung, số máy xe mô tô, do đó Cơ quan điều tra đã chuyển xe mô tô cho đội Cảnh sát giao thông, trật tự cơ động Công an huyện Tháp Mười xử lý theo thẩm quyền.

Tại Bản Cáo trạng số 73/CT-VKSTM ngày 29 tháng 11 năm 2019, của Viện kiểm sát huyện Tháp Mười, truy tố bị cáo Hà Tấn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 (gọi tắt BLHS 2015).

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Vị đại diện Viện kiểm sát huyện Tháp Mười thực hiện quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố như Cáo trạng và phát biểu quan điểm luận tội, đưa ra những chứng cứ, lý lẽ kết tội đối với bị cáo. Sau khi phân tích hành vi phạm tội, căn cứ nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

1- Về tội danh: Căn cứ Điều 173 của BLHS 2015 tuyên bố bị cáo Hà Tấn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2- Về hình phạt:

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51 của BLHS 2015, xử phạt: Bị cáo Hà Tấn T từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

3- Về trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong.

4- Về vật chứng, áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 tịch thu tiêu hủy: 01 giỏ xách màu nâu; 01 cây gậy ba khúc dài 60cm; 01 cây mỏ lết dài 38cm; 01 thanh kim loại dài 22cm, có hai đầu dẹp; 01 thanh kim loại tự chế dài 32cm; 01 dụng cụ đa năng dài 09cm và 01 cặp bao tay màu xám (Đây là các công cụ bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội, do không còn giá trị sử dụng).

Bị cáo T khai: Khoảng 07 giờ ngày 07/10/2019, bị cáo điều khiển xe mô tô biển số 37L2-9210 chở chị Nguyễn Thị Huyền T (vợ bị cáo) đi từ nhà chị T đến xã Mỹ Đông rồi chạy lên xã Mỹ Quí, huyện Tháp Mười để trộm cắp tài sản, khi đi bị cáo chỉ nói với chị T là đi công chuyện. Khoảng 9 giờ 20 phút cùng ngày, khi chạy xe ngang nhà chị P, bị cáo thấy nhà đóng cửa, không người trông coi, nên bị cáo điều khiển xe quay lại đậu xe trước đường và nói với chị T đứng ngoài xe đợi. Tiếp đó bị cáo vào nhà kêu 02, 03 tiếng “Chủ nhà ơi” nhưng không ai trả lời, bị cáo quan sát thấy cửa chính nhà khép kín, cửa phụ phía bên trái nhà khép kín, khóa chốt ngang bên trong vòng sợi dây xích nhưng không khóa, bị cáo thò tay vào bên trong mở chốt cửa đi vào buồng thấy có một tủ kiếng nhôm, bị cáo lấy cây sắt 10 hai đầu dẹp màu trắng, dùng một đầu ép vào khe tủ có ổ khóa cạy bên cánh kiếng, nên làm bể kiếng, cánh cửa bung ra, bị cáo lấy 01 máy tính laptop để xuống nền gạch, tiếp tục thò tay vào ngăn thứ hai lấy một hộp dẹp để xuống nền gạch gần máy tính, thì bị chị P phát hiện và truy hô. Sau đó, bị cáo bỏ chạy ra đường và lên xe chạy đi đến bến đò Đường Thét thì bị Công an xã Mỹ Quí bắt giữ.

Lời nói sau cùng: Bị cáo biết hành vi của mình là sai, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tháp Mười, Điều tra viên, Viện kiểm sát huyện Tháp Mười, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra, chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai của bị cáo T phù hợp với Cáo trạng của Viện kiểm sát, bị cáo lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu (chị P) trong việc quản lý tài sản, bị cáo lén lúc vào nhà cạy tủ kiếng bằng nhôm lấy trộm tài sản là máy tính xách tay (Laptop), thì bị chị P phát hiện truy hô, bị cáo để tài sản lại bỏ chạy, nhưng bị bắt quả tang.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với Bản kết luận định giá số 55 ngày 08/10/2019, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tháp Mười kết luận: Trị giá máy tính xách tay (Laptop) hiệu Acer tại thời điểm xảy ra vụ án là 2.100.000 đồng.

[3] Do đó, Viện kiểm sát huyện Tháp Mười truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS 2015 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Tội phạm và hình phạt được quy định như sau:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

[4] Xét bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức rõ việc lấy trộm tài sản của người khác là hành vi vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn thực hiện, lỗi của bị cáo là cố ý. Do đó, việc đưa bị cáo ra xét xử tại phiên tòa hôm nay là cần thiết, cần có mức án tù tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, nhằm cải tạo giáo dục bị cáo trở thành công dân sống có ích cho xã hội và để phòng ngừa trong toàn xã hội nói chung và tại địa phương huyện Tháp Mười nói riêng, do tình hình tội phạm về trộm cắp tài sản có chiều hướng ngày càng gia tăng.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ “Bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả; Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của BLHS 2015.

Ngoài ra, ngày 11/12/2002, bị cáo T bị Tòa án thị xã Cao Lãnh (nay là thành phố Cao Lãnh) xử phạt 03 (ba) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/8/2005, đã chấp hành xong phần án phí hình sự và án phí dân sự sơ thẩm, nhưng trách nhiệm dân sự bị cáo chưa bồi thường. Xét, thời điểm bị cáo phạm tội và bị xét xử thì bị cáo chưa đủ 18 tuổi, nên không xem bị cáo có án tích theo quy định tại Điều 107 BLHS 2015 và cần xem bị cáo có nhân thân xấu.

Căn cứ vào tình tiết giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi quyết định hình phạt.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Lương Thị Kim P đã nhận lại Laptop và yêu cầu bị cáo bồi thường 500.000 đồng chi phí sửa chữa cửa nhôm kiếng, bị cáo đã bồi thường xong. Chị P không yêu cầu gì thêm, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[8] Về vật chứng, căn cứ vào Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 tịch thu tiêu hủy: 01 giỏ xách màu nâu; 01 cây gậy ba khúc dài 60cm; 01 cây mỏ lết dài 38cm; 01 thanh kim loại dài 22cm, có hai đầu dẹp; 01 thanh kim loại tự chế dài 32cm; 01 dụng cụ đa năng dài 09cm và 01 cặp bao tay màu xám (Đây là các công cụ bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội).

(Hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tháp Mười đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 24/12/2019).

[9] Đối với chị Nguyễn Thị Huyền T đi chung xe với bị cáo T, nhưng chị T không biết bị cáo T đi trộm cắp tài sản, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[10] Đối với xe mô tô đã thu giữ, quá trình điều tra xác định xe mô tô biển số 37L2-9210 do ông Nguyễn Xuân T đứng tên chủ sở hữu nhưng có số khung, số máy khác với số khung, số máy xe mô tô. Do đó, Cơ quan điều tra đã chuyển xe mô tô biển số 37L2-9210 cho đội Cảnh sát giao thông, trật tự cơ động Công an huyện Tháp Mười xử lý theo thẩm quyền, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[11] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[12] Bị cáo và người bị hại có quyền kháng cáo bản án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1- Tuyên bố: Bị cáo Hà Tấn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2- Xử phạt:

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt: Bị cáo Hà Tấn T 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ ngày 07/10/2019.

3- Về vật chứng:

Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 tịch thu tiêu hủy: 01 giỏ xách màu nâu; 01 cây gậy ba khúc dài 60cm; 01 cây mỏ lết dài 38cm; 01 thanh kim loại dài 22cm, có hai đầu dẹp; 01 thanh kim loại tự chế dài 32cm; 01 dụng cụ đa năng dài 09cm và 01 cặp bao tay màu xám (Đây là các công cụ bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội).

(Hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tháp Mười đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 24/12/2019).

5- Về án phí, căn cứ Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo Hà Tấn T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án tỉnh Đồng Tháp trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng, người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án tỉnh Đồng Tháp trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày Tòa án niêm yết bản án tại nơi cư trú. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

290
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 01/2020/HS-ST ngày 10/01/2020 về trộm cắp tài sản

Số hiệu:01/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tháp Mười - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;