Bản án 01/2020/HS-ST ngày 06/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ - TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 01/2020/HS-ST NGÀY 06/01/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 01 năm 2020, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 129/2019/TLST-HS, ngày 02 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 138/2019/QĐXXST-HS, ngày 23 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Bùi Văn T (tên gọi khác: Không); sinh ngày 01 tháng 01 năm  1980 tại thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh. Nơi cư trú: phường Y, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn G,  (đã chết) và bà Nguyễn Thị N, sinh năm: 1954; có vợ là Tô Thị H, sinh năm  1986, có 01 con sinh năm 2019; nhân thân: Ngày 24/3/2005, Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Quảng Ninh, xử phạt 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (đã được xóa án tích); tiền án: Ngày 01/10/2010, Tòa án nhân dân huyện Yên Hưng (nay là thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh) xử phạt 08 năm tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”, ngày 22/3/2018 chấp hành xong án phạt  tù;  tiền  sự:  không;  bị  bắt  quả  tang,  tạm  giữ  từ  ngày  27/9/2019  đến  ngày  03/10/2019, tạm giam từ ngày 03/10/2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ  Công an thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, có mặt tại phiên tòa.

Người chứng kiến:

1. Ông Cao Việt H, sinh năm: 1962; địa chỉ: phường P, thành phố U, tỉnh  Quảng Ninh, vắng mặt tại phiên tòa.

2. Anh Phạm Đức H, sinh năm: 1973; địa chỉ: phường P, thành phố U, tỉnh  Quảng Ninh, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ 20 phút 27/9/2019, tại tổ 1, khu B, phường P, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, Tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an thành phố Uông Bí phối hợp với Công an phường Phương Nam phát hiện bắt quả  tang Bùi Văn T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ: tại túi quần phía trước bên phải T đang mặc 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long, bên trong có 01 gói giấy bạc màu trắng và 01 gói giấy màu trắng có dòng kẻ ngang đều chứa chất bột màu trắng dạng cục; tại túi quần phía sau bên phải T đang mặc 01 ví giả da, bên trong có 01 gói giấy bạc màu trắng chứa chất bột màu trắng dạng cục. Ngoài ra còn thu giữ: 01 ví giả da màu đen; 01 chứng  minh nhân dân mang tên Bùi Văn T; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu xám, cùng sim số 0962.978.617; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, cùng sim số 0778.277.030; số tiền 50.000 đồng.

Tại Bản kết luận giám định số: 768/GĐMT ngày 02/10/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Mẫu vật thu giữ của Bùi Văn T gửi giám định là ma túy, loại Heroine. Tổng khối lượng: 1,469 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Bùi Văn T khai nhận: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày  27/9/2019, T đón xe khách từ thành phố M đến thành phố Hải Phòng để mua ma túy về sử dụng. Khi xe đến khu vực Cầu Quay thuộc thành phố Hải Phòng (không rõ phường, quận nào), T đi đến một ngõ nhỏ gần bệnh viện Việt Tiệp thuộc thành phố Hải Phòng. Tại đây, T đi bộ vào trong ngõ thì gặp và hỏi mua của một người phụ nữ không quen biết ma túy loại Heroine với giá 1.500.000 đồng. Người phụ nữ nhận tiền, đi đâu đó khoảng 05 phút rồi quay lại đưa cho T  03 gói ma túy, trong đó có 02 gói giấy bạc màu trắng và 01 gói giấy màu trắng có dòng kẻ ngang, bên trong đều chứa chất bột màu trắng dạng cục. T cất giấu 01 gói giấy bạc vào ví giả da ở túi quần phía sau bên phải, 02 gói giấy còn lại cất giấu vào vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu “Thăng Long” ở túi quần phía trước bên phải, sau đó, T đón xe khách đi về. Khi xe đi đến khu vực thuộc tổ 1, khu B , phường P, thành phố U thì bị lực lượng công an kiểm tra phát hiện, bắt quả tang, thu giữ số ma túy cùng các đồ vật, tài sản T mang theo.

Tại Bản cáo trạng số 137/CT-VKSUB ngày 29/11/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí đã truy tố Bùi Văn T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo như nội dung bản Cáo  trạng và đề nghị:

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1  Điều 52 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Bùi Văn T từ 30 đến 36 tháng tù về tội:

“Tàng trữ trái phép chất ma túy”; thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 27/9/2019.

- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo.

- Căn cứ: điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy: 01 ví giả da màu đen; 1,28 gam mẫu vật ma tuý hoàn lại sau giám định và 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu “Thăng Long” được niêm phong trong phong bì thư số 768/GĐMT; trả lại bị cáo số tiền 50.000đồng.

Tại phiên tòa, bị cáo nhận tội và thừa nhận: Việc truy tố và đưa bị cáo ra xét xử là đúng người, đúng tội, không oan. Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Những người chứng kiến: ông Cao Việt H và anh Phạm Đức H có lời khai trong quá trình điều tra phù hợp với lời khai bị cáo Bùi Văn T trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về các tài liệu, chứng cứ, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Uông Bí, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, của Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các tài liệu, chứng cứ, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc định tội đối với bị cáo: Lời khai của bị cáo Bùi Văn T tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai xác nhận của những người chứng kiến và nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ của bị cáo, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 17 giờ 20 phút ngày 27/9/2019, tại tổ 1, khu B, phường P, thành phố  U, tỉnh Quảng Ninh, Bùi Văn T đang thực hiện hành vi tàng trữ để sử dụng 1,469 gam ma túy loại Heroine. Bị cáo là người thành niên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, tuy biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì hành vi đó đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý chất ma tuý của Nhà nước. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1  Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí truy tố bị cáo và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về hình phạt:

[3.1] Hình phạt chính:

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm;

...

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đang có tiền án tiếp tục phạm tội nên áp dụng điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và  tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, do đó được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Để tăng cường biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm nói chung cũng  như để giáo dục, cải tạo riêng đối với bị cáo, cần có một hình phạt nghiêm, xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để rèn luyện, giáo dục bị cáo sửa chữa lỗi lầm của bản thân để trở thành công dân tốt.

[3.2] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ  (Năm triệu đồng) đến 500.000.000đ (Năm trăm triệu đồng). Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

- Đối với: 01 chứng minh nhân dân mang tên Bùi Văn T; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu xám, cùng sim số 0962.978.617; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, cùng sim số 0778.277.030, là tài sản của T,  không liên quan đến hành vi phạm tội, Cơ quan điều tra đã trả lại cho gia đình bị cáo T quản lý, nên không đề cập xử lý;

- Đối với 1,28 gam mẫu vật ma tuý hoàn lại sau giám định và 01 vỏ bao thuốc lá nhãn  hiệu  “Thăng  Long”  được  niêm phong  trong  phong  bì  thư số  768/GĐMT, đây là chất Nhà nước cấm lưu hành và vật không có giá trị sử dụng, nên cần tịch thu tiêu hủy; 01 ví giả da màu đen, thu giữ của bị cáo là vật bị cáo dùng để cất giữ ma túy, là phương tiện phạm tội nhưng không còn giá trị sử dụng,  nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Số tiền 50.000đ (năm mươi nghìn đồng), thu giữ của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội, nên trả lại cho bị cáo.

[5] Về các tình tiết khác trong vụ án: Đối với người phụ nữ bán ma túy cho bị cáo T, không rõ lai lịch, địa chỉ, nên không làm rõ được để xử lý, nên không đề cập xử lý.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH  

1. Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;

- Tuyên bố: bị cáo Bùi Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

- Xử phạt: bị cáo Bùi Văn T 30 (Ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 27/9/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng: điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 ví giả da màu đen; 1,28 gam mẫu vật ma tuý hoàn lại sau giám định và 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu “Thăng Long”, được niêm phong trong phong bì thư số 768/GĐMT, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh;

- Trả bị cáo số tiền 50.000đ (năm mươi nghìn đồng).

(Tình trạng và đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng hồi 10 giờ, 00 phút, ngày 11 tháng 12 năm 2019 giữa Công an thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh).

3. Về án phí: Áp dụng: khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 3; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBNTQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Bùi Văn T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước.

4. Về Quyền kháng cáo: Áp dụng: Điều 331; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

289
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 01/2020/HS-ST ngày 06/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:01/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;